>>
>>
>>
>>
>>
>>
>>
![]() |
Tỷ giá vẫn sẽ là khó khăn lớn mà DN sẽ phải đối mặt trong kinh doanh |
Nhiều lợi ích chi phối
Tranh cãi giữ hay giảm giá đồngtiền Việt Nam mạnh đã kéo dài nhiều ngày vì tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cácnhóm lợi ích khác nhau.
Chính phủ, các DN lớn, DN nướcngoài sản xuất và bán hàng trong nước, người có nguồn thu nhập cao hoặc tài sảnlớn bằng VND muốn giữ tỷ giá.
Tuy nhiên, một nhóm đối tượng cóđóng góp quan trọng trong việc tạo việc làm, tạo nguồn thu ngoại tệ, phát triểnnăng lực cạnh tranh của đất nước là các DN xuất khẩu, đặc biệt là DNNVV muốntăng giá USD một cách mạnh hơn để tạo thuận lợi cho công việc kinh doanh. Họmong muốn điều chỉnh giá hợp lý hơn để giảm thiểu các rủi ro.
Chính phủ là nhóm có ảnh hưởngquyết định về vấn đề tỷ giá. Chính phủ có thể điều chỉnh tỷ giá để đạt được cácmục tiêu nhất định. Có hai lý do thường được các nhà quản lý biện hộ cho việcgiữ giá đồng VND: một là nợ nước ngoài của Việt Nam quá lớn: hai là tăng tỷ giálàm tăng giá trong nước ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, với lý do thứ nhất,cần phải đặt câu hỏi về tính hiệu quả của các khoản vay của Chính phủ hay cácDNNN mà Chính phủ đứng ra bảo lãnh. Hơn nữa, giữ giá VND cũng không thể giúpgiải quyết các khoản nợ nước ngoài, có chăng chỉ trong thời gian trước mắt. Bởivì, với số nợ lớn như hiện nay thì việc trả nợ kéo dài trong nhiều thập kỷ.
Muốn trả nợ phải phát triển và cónguồn ngoại tệ. Do vậy, chúng ta phải chấp nhận khó khăn trước mắt để xây dựngkhả năng sản xuất và khả năng cạnh tranh lâu dài, DN phát triển thì sẽ có nguồnlực để trả nợ.
Còn đối với những DN nhập nguyênphụ liệu để sản xuất và bán hàng trong nước sẽ có lợi khi tỷ giá thấp vì giánguyên vật liệu của họ sẽ rẻ hơn. Nhưng họ quên rằng, với giá trị đồng nội địabị giữ ở mức quá cao so với thực tế thì sẽ không khuyến khích sản xuất trongnước cũng như nội địa hóa các mặt hàng đang phải nhập khẩu hiện nay. Về lâu dài,sản xuất trong nước sẽ thua thiệt và liệu có đủ sức cạnh tranh với hàng nhậpkhẩu khi mở của thị trường.
Trong khi đó, lập luận phá giáVND sẽ ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân cần được nhìn nhậndưới nhiều góc độ. Thực tế, những người có quan điểm ủng hộ tiêu dùng thì tánthành quan điểm này. Nhưng dưới góc độ của nhà sản xuất thì không tán thành. Tuynhiên, trong dài hạn, chúng ta không thể duy trì tỷ giá thấp để có lợi cho nhậpkhẩu và bất lợi cho xuất khẩu. Bởi vì, nhập khẩu cao sẽ nâng thâm hụt thương mại,tạo sức ép phá giá đồng tiền, và đến một mức độ nào đó, sức ép này sẽ trở nênbất khả kháng.
Trong khi đó, DNNVV chiếm số đôngtrong cộng đồng DN, tạo ra phần lớn việc làm và nâng cao khả năng cạnh tranh củamột quốc gia. Đây cũng là khối DN xuất khẩu mạnh mẽ nhất. Nhưng chính sách tỷgiá không phù hợp và đang đẩy DN xuất khẩu nhất là các DNNVV đối mặt với nhiềurủi ro từ tỷ giá và có thể bị phá sản.
Phép tính của thực tế
Từ năm 2007 đến này, chi phí sảnxuất thực tế của DN đã tăng gấp đôi. Một loại vải các DN trường dùng giá đầu năm2007 chỉ khoảng 40.000 đồng/m thì nay là 90.000 đồng/m. Lương nhân viên vănphòng tăng từ 2,5 triệu đầu năm 2007 lên 5 triệu đồng vào thời điểm hiện nay.Mặc dù chi phí sản xuất tăng gấp đôi, nhưng rất khó tăng giá đầu ra. DN dù đã cốgắng thương thảo với khách hàng nhưng chỉ tăng giá bán khoảng 25%. Như vậy, nếubán một sản phẩm giá 10 USD đầu năm 2007 thì hiện nay tăng giá lên 12,5 USD.
10 USD năm 2007 đổi ra VND làkhoảng 157.000 Đồng (tỷ giá 15,700). Chi phí đầu năm 2007 là khoảng 110.000, cólãi 47.000 đồng lãi gộp. Còn hiện nay, với sản phẩm đó, thu được 12,5 USD vàtính ra tiền là 231.000 đồng theo tỷ giá cao nhất là 18.500 đồng/USD. Trong khiđó chi phí sản xuất tăng gấp đôi tức là 220,000 Đồng. Như vậy, hiện giờ DN lãithấp hơn, thậm chí mất lãi vì nhiều yếu tố khách quan khác. Vì thế không có gìlạ khi một số DN xuất khẩu đã kêu rằng càng làm nhiều thì càng lỗ nhiều.
Phản biện điều này, các nhà quảnlý nói, điều chỉnh tăng giá không giúp xuất khẩu vì tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụkiện của ta lớn. Tuy nhiên, cũng bằng phép tính thực tế cho thấy, một số sảnphẩm xuất khẩu có giá thành là 10 USD và giá bán là 13 USD. Cơ cấu giá thành là70% nguyên liệu nhập khẩu, tức là 7 USD và 30% nguyên phụ liệu trong nước tức là54.000 đồng. Nhưng nếu tỷ giá được điều chỉnh cao lên thì lợi nhuận sẽ tăng lên.Như vậy, cảnh báo trên là không đáng lo.
Người điều hành chính sách cầncân nhắc nhiều yếu tố, tác động đến những nhóm lợi ích khác. Tuy nhiên, cần phảicó lựa chọn, DN xuất khẩu đặc biệt là DNNVV có vai trò quan trọng đối với việcphát triển kinh tế. Nếu không điều chỉnh tăng tỷ giá giữa VND và USD thì DN sẽcòn gặp khó khăn và thậm chí bị phá sản. Như vậy, chính chúng ta đang tự làm yếusức mạnh của chính mình.
Bài học của Trung Quốc cho thấy,họ duy trì tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Với mức thặng dư thương mạikhổng lồ, đồng tiền của Trung Quốc đáng ra phải lên giá so với USD rất nhiều.Nhưng Trung Quốc vẫn cố gắng duy trì tỷ giá như cũ để bảo vệ lợi thế xuất khẩumặc dù gặp phải sức ép của các nước về tăng giá tiền bản tệ.
Theo G.S Lê Anh Sơn