Kế hoạch khoảng 16 nghìn tỷđồng trái phiếu Chính phủ hai tháng cuối năm có nguy cơ phá sản khi hoạt độngđấu thầu “đóng băng”.

Phía sau trạng thái “đóng băng” đấu thầu trái phiếu
Theo dõi đấu thầu trái phiếu Chính phủ tại HNX (Ảnh: TTXVN)

Mùa cao điểm giữa năm 2010, hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ tại Sở Giaodịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) có tới 95% lực lượng tham gia là các ngân hàngthương mại.

Nay, phó tổng giám đốc phụ trách đầu tư của một ngân hàng lớn cho biết, ngay khilãi suất trái phiếu kỳ hạn 3 năm trên 10%/năm cũng đã không mặn mà, huống hồ làthấp như hiện nay.

Trắng bảng dự thầu

Từ đầu tháng 11 đến nay, một số công ty chứng khoán lớn đều đặn cập nhật diễnbiến của thị trường trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Nhận định chung liên tụcđược nhắc đến là: kế hoạch phát hành khoảng 16.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủcủa Kho bạc Nhà nước trong hai tháng cuối năm đang đứng trước nguy cơ thất bại.

Không khó khi đưa ra nhận định đó, bởi thực tế đang rõ ràng, ngoại trừ nhà pháthành có những điều chỉnh lớn.

Sau phiên thành công ngày 28/10/2010, đến nay tất cả 15 phiên đấu thầu tráiphiếu Chính phủ liên tiếp ở tất cả các kỳ hạn 3, 5 và 10 năm đều trắng bảng dựthầu (tính đến phiên gần nhất ngày 30/11). Nhiều phiên không có thành viên nàođăng ký tham gia, hoặc có tham gia nhưng không thể huy động được vốn.

Chuỗi thất bại này bắt đầu từ phiên ngày 5/11. Đó là mốc đánh dấu thay đổi lớnvề lãi suất trên thị trường, cũng như sự điều chỉnh của chính sách tiền tệ, thịtrường đối diện với vấn đề thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Ngày 5/11,Ngân hàng Nhà nước đồng loạt tăng các lãi suất chủ chốt; đi cùng với đó là biếnđộng mạnh của lãi suất đầu vào của các ngân hàng cũng như căng thẳng thanh khoảnthể hiện rõ. 

“Biến cố” trên được các phân tích đưa ra để lý giải cho sự thất bại của hoạtđộng đấu thầu trái phiếu Chính phủ, thể hiện ở sự vắng bóng hoàn toàn thành viêntham gia ngay trong phiên ngày 5/11.

Trở lại với báo cáo định kỳ của một số công ty chứng khoán nói trên, nguyên nhânchính tập trung ở sự căng thẳng trên thị trường tiền tệ khiến các ngân hàng khóhuy động vốn (lực lượng chính tham gia đấu thầu), và mức giá trần của trái phiếuthấp hơn kỳ vọng.

Như thông tin từ phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại trên, ngay cả khilãi suất trái phiếu kỳ hạn 3 năm trên 10%/năm họ đã không còn mặn mà, huống hồlà mức trần 9,5%/năm trong phiên gần nhất (30/11) - một mức mà Công ty Cổ phầnChứng khoán Tp.HCM (HSC) bình luận là quá thấp trong điều kiện thị trường hiệnnay.

Và để tăng khả năng thành công của kế hoạch phát hành khoảng 16.000 tỷ đồng tráiphiếu, dự báo đưa ra là Kho bạc Nhà nước có thể sẽ nâng mức lãi suất trần lên.

Lãi suất chưa hẳn là tất cả

Lãi suất quá thấp, hoặc “đã ở vùng đáy” được một số bình luận đưa ra lý giải.Nhưng trao đổi với chúng tôi, vị lãnh đạo ngân hàng nói trên cho rằng đó mới chỉlà một yếu tố. “Khi quyết định đầu tư, chúng tôi còn phải cân đối và tính tớinhiều yếu tố khác nữa”, ông nói.

Đó là yêu cầu cân đối tài sản của ngân hàng và chi phí đầu tư tại từng thời điểm.Lãi suất huy động đầu vào đã tăng cao được đặt trong so sánh bất lợi với lãisuất trái phiếu thấp. Và một điểm được chú ý là yêu cầu cân đối vốn và cân đốikỳ hạn. Ngân hàng cần hài hòa những yêu cầu này.

Từ đầu tháng 11, chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh hơn đã thể hiện, phản ánh quakhó khăn thanh khoản và sự leo thang của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.Lãi suất huy động đã tăng nhanh và có xu hướng tăng cao. Trong khi đó, bên cạnhlãi suất thấp, vốn đầu tư vào trái phiếu lại mang tính dài hạn trong khi khônghẳn ngân hàng nào cũng dư giả vốn để sẵn sàng theo đuổi.

Ở một diễn biến khác, yếu tố cơ hội đầu tư qua kênh trái phiếu với khả năng quayvòng vốn trên thị trường mở và liên ngân hàng cũng đã hạn chế. Trong tháng 5 và6, hoạt động đấu thầu trái phiếu sôi động được phân tích ở khả năng sinh lợi từchênh lệch lãi suất hấp dẫn. Mua trái phiếu lãi suất khoảng 11%/năm, ngân hàngdùng cầm cố tranh thủ nguồn vốn khoảng 7% - 8%/năm trên thị trường mở (OMO) đểcó chênh lệch 3% - 4%; nguồn vốn đó thậm chí còn thêm một vòng cho vay trên liênngân hàng với lãi suất từ 9% đến trên 10%...

Nhưng nay, khả năng tạo chênh lệch đã bị thu hẹp khi lãi suất trái phiếu thấp,lãi suất mượn vốn trên OMO tăng. Cũng xét theo mối liên hệ này, khó khăn đã thểhiện khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạmphát. Các kỳ hạn dài trên OMO như 14 ngày, 28 ngày đã bị rút, chỉ còn lại kỳ hạn7 ngày; tại kỳ hạn 7 ngày này lãi suất 7%/năm trước đó cũng đã “bị” tăng lên8,75%/năm. Giá trị còn lại là lượng vốn bơm ròng của Ngân hàng Nhà nước vẫn đangđược duy trì khá đều những tuần vừa qua.

Tuy nhiên, khi trao đổi về khía cạnh này, lãnh đạo một ngân hàng thương mại chorằng không nên “tập trung” ở câu chuyện mua trái phiếu để tranh thủ vốn trên OMOkiếm lời từ chênh lệch lãi suất. “Đó chỉ là một giá trị cấu thành của trái phiếu,không phải là mục tiêu chính. Quan trọng hơn là tính năng tạo chủ động phòng thủcho thanh khoản, dự trữ thanh khoản của nó”, vị lãnh đạo này nói.

Từ nay đến đầu năm tới, mùa cao điểm chi trả và ám ảnh khó khăn thanh khoảnthường thể hiện trong quá khứ, trái phiếu sẽ phát huy tính năng dự phòng. Thếnhưng điều này còn tuy thuộc vào trạng thái của thị trường mở. Trong tình huốngNgân hàng Nhà nước ngừng bơm ròng, hút tiền về để chống lạm phát, có thể cácngân hàng khó khăn thanh khoản sẽ buộc phải bán trái phiếu. Ở tình huống giảđịnh này có thể suy tính: khi nhiều người cùng bán ra, giá khó thuận lợi.

Theo Minh Đức
VnEconomy