Mở cửa ngày giao dịch, cả ba chỉ số đạt mức tăng xấp xỉ 0,3% giá trị, tuy nhiênxu hướng giảm điểm nhanh chóng được hình thành. Thị trường diễn biến trầm lắngvới biên độ dao động từ mức tăng 0,3% đến -0,3%. Phiên buổi chiều chứng kiến sựtrỗi dậy của các chỉ số nhưng đà giảm của cổ phiếu khối năng lượng, dược phẩm,công nghệ đã nhanh chóng đẩy thị trường giảm điểm khi kết thúc ngày giao dịch.
Giao dịch thận trọng
Diễn biến phiên đầu tuần không có nhiều biến động do giới đầu tư đang ngóng chờđánh giá của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Bernanke trong phiên điềutrần trước Thượng viện và Hạ viện Mỹ về nền kinh tế và lãi suất cơ bản, trongngày 24-25/2 tới.
Đây là hai ngày quan trọng đối với quyết định của các nhà đầu tư, bởi nó chothấy rõ hơn bức tranh thực và triển vọng của nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, địnhhướng về lãi suất cơ bản cũng là thông tin nhà đầu tư đang ngóng đợi, dù các dựbáo đều nghiêng về khả năng FED sẽ giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức thấp thêmmột thời gian nữa.
Tuần trước, FED đã nâng lãi suất tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mạitừ 0,5% lên 0,75%/năm. Đây được xem là bước đi tích cực nhằm giúp tăng tínhthanh khoản cho hệ thống ngân hàng Mỹ.
|
Thị trường diễn biến trầm lắng với biên độ dao động từ mức tăng 0,3% đến -0,3% - (Ảnh: Reuters) |
Bất ngờ lớn nhất trong ngày giaodịch là việc nhà đầu tư tập trung gom mua cổ phiếu khối tài chính, ngân hàng.Chỉ số S&P Tài chính đã tăng 1,1%, chỉ số KBW khối ngân hàng tăng 1,9%. Trongđó, cổ phiếu Bank of America tăng 2,14%, cổ phiếu JPMorgan nhích 2,1%, cổ phiếuMorgan Stanley tiến thêm 1,09%, cổ phiếu Citigroup lên 1,17%.
Cổ phiếu ngành bảo hiểm y tế cũng có phiên tăng điểm mạnh mẽ trước kế hoạch cảitổ hệ thống y tế Mỹ của Tổng thống Obama trị giá 950 tỷ USD. Cổ phiếu WellPointlên 1,7%, cổ phiếu Humana tăng 5,6%, cổ phiếu UnitedHealth tiến thêm 3,6%.
Cổ phiếu khối năng lượng phiên này đồng loạt mất điểm mạnh, chỉ số S&P Nănglượng mất 1,3% và là nguyên nhân chính đẩy chỉ số S&P 500 đi xuống, trong đó cổphiếu Exxon Mobil hạ 0,7%, cổ phiếu Chevron giảm 1,5%.
Giao dịch thận trọng và ảm đạm đã khiến khối lượng giao dịch của sàn New York,American Stock Exchange và Nasdaq chỉ đạt gần 7 tỷ cổ phiếu - thấp hơn mức 9,65tỷ cổ phiếu/phiên của năm 2009. Trên sàn New York, thị trường có 1.540 cổ phiếugiảm điểm và có 1.511 cổ phiếu tăng điểm. Trên sàn Nasdaq, thị trường cứ có 14cổ phiếu tăng điểm thì có 13 cổ phiếu giảm điểm.
Điểm qua kết quả giao dịch ngày 22/2: chỉ số Dow Jones giảm 18,97 điểm, tươngđương -0,18%, chốt ở mức 10.383,38.
Chỉ số Nasdaq xuống 1,84 điểm, tương đương -0,08%, chốt ở mức 2.242,03.
Cuối cùng, chỉ số S&P 500 mất 1,16 điểm, tương ứng -0,1%, đóng cửa ở mức1.108,01.
Chứng khoán châu Á đồng loạt tăng điểm mạnh
Ngày 22/2, các thị trường chứng khoán châu Á đồng loạt tăng điểm, đưa chỉ sốMSCI châu Á - Thái Bình Dương có phiên tăng điểm mạnh nhất kể từ tháng 11/2009.
Sức tăng của thị trường đã lộ rõ khi ngay từ lúc mở cửa ngày giao dịch, hầu hếtcác thị trường lớn của chứng khoán khu vực đều bật tăng với biên độ lớn. Tại cácthị trường Nhật, Hồng Kông và Hàn Quốc, các chỉ số chứng khoán đã đạt mức tăngtrên 2% trong phiên buổi sáng và tiếp tục duy trì biên độ tăng điểm cao đến khithị trường đóng cửa ngày giao dịch.
Ở các thị trường Ấn Độ, Đài Loan và Australia, biên độ tăng khá của các chỉ sốcũng góp phần quan trọng vào phiên giao dịch thành công này. Riêng thị trườngTrung Quốc, dù thị trường có lúc đã lên điểm trong gần cuối phiên giao dịch,nhưng lực cung mạnh đã đẩy thị trường đi xuống với biên độ 0,5%.
Thị trường | Chỉ số | Phiên trước | Đóng cửa | Tăng/giảm (điểm) | Tăng/giảm (%) |
Mỹ | Dow Jones | 10.402,35 | 10.383,38 | | |
Nasdaq | 1.823,32 | 2.242,03 | | | |
S&P 500 | 1.109,17 | 1.108,01 | | | |
Anh | FTSE 100 | 5.358,17 | 5.352,07 | | |
Đức | DAX | 5.722,05 | 5.688,44 | | |
Pháp | CAC 40 | 3.769,54 | 3.756,70 | | |
Đài Loan | Taiwan Weighted | 7.441,84 | 7.560,04 | | |
Nhật Bản | Nikkei 225 | 10.123,58 | 10.400,47 | | |
Hồng Kông | Hang Seng | 19.894,02 | 20.377,27 | | |
Hàn Quốc | KOSPI Composite | 1.593,90 | 1.627,10 | | |
Singapore | Straits Times | 2.772,21 | 2.767,38 | | |
Trung Quốc | Shanghai Composite | 3.018,13 | 3.003,40 | | |
Ấn Độ | BSE | 16.191,63 | 16.331,97 | | |
Australia | ASX | 4.673,90 | 4.732,70 | | |
Việt Nam | VN-Index | 507,00 | 510,02 | | |
Nguồn: CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg |
TheoDuy Cường