Đó là quan điểm của Tiến sĩ LêViết Khuyến - trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục ĐH (Hiệp hội các trường ĐH,CĐ ngoài công lập VN), nguyên phó vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT).

Trao đổi với báo chí, khi đánhgiá về cách cấp bằng tốt nghiệp ĐH, CĐ ở VN hiện nay với chung một mẫu phôi bằngdo Bộ GD-ĐT in ấn và phát hành cho tất cả các trường, TS Lê Viết Khuyến nhậnđịnh rằng cách quản lý như thế đã không còn phù hợp, nhất là khi số lượng trườngĐH, CĐ tăng cao, quy mô sinh viên lớn, phương thức đào tạo đã thay đổi.

TS Lê Viết Khuyến cũng cho rằngkhông nên có văn bằng chứng chỉ của Bộ GD-ĐT, mà chỉ có văn bằng chứng chỉ củatừng trường ĐH, CĐ. Tấm bằng đó thể hiện thương hiệu và uy tín của từng trường.

TS Lê Viết Khuyến nói: Cách quảnlý phôi bằng tốt nghiệp như Bộ GD-ĐT đang làm hiện nay cũng có ưu điểm là hạnchế được tình trạng tiêu cực trong việc cấp phát bằng tốt nghiệp ở các trườngĐH, CĐ, nhất là trong tình hình có không ít trường sẵn sàng bỏ qua việc xây dựngthương hiệu của mình để chạy theo quy mô đào tạo.

Thứ đến, một đầu mối quản lýthống nhất sẽ góp phần giúp phát hiện nhanh những trường hợp làm văn bằng giảkhi đã bị các cơ quan công quyền nghi vấn. Một ưu điểm nữa đã thể hiện vào nhữngnăm trước khi các phương tiện in ấn còn khó khăn, cách quản lý như vậy sẽ tiếtkiệm chi phí, giá thành phôi sẽ thấp hơn khi được in ấn với số lượng nhiều...

Quản lý văn bằng như thế là “chăn dắt”

TS Lê Viết Khuyến - (Ảnh: Việt Dũng)

"Các trường ĐH, CĐ đều có quyền in ấn phôi bằng và cấp phát VBCC theo quy chế VBCC của Bộ GD-ĐT và phải chịu trách nhiệm trước xã hội về mọi tấm bằng do trường cấp”

TS Lê Viết Khuyến

Tuy nhiên dù sao đi nữa, đâyvẫn là cách quản lý kiểu “chăn dắt” và kiểu đó càng trở nên bất hợp lý khisố lượng trường ĐH, CĐ quá nhiều, quy mô SV quá đông, phương thức đào tạo cónhiều thay đổi, trong khi đội ngũ quản lý nhà trường ngày càng trưởngthành... Dĩ nhiên, khi không còn phù hợp với thực tiễn, cách quản lý phôibằng như hiện nay sẽ gây rất nhiều phiền hà cho các trường...

- Thưa ông, có lẽ không chỉ làchuyện phiền hà, nhiều ý kiến cho rằng với cách chỉ sử dụng một mẫu phôi bằngthống nhất do bộ in ấn và phát hành như hiện nay sẽ làm mất đi một phần quyền tựchủ, tự chịu trách nhiệm của các trường. Các trường ĐH sẽ không có ý thức nỗ lựcxây dựng uy tín về chất lượng đào tạo, thương hiệu riêng của mình. Mặt khác, xãhội cũng không hình thành được thói quen đánh giá bằng cấp gắn với chất lượng,tên tuổi cụ thể của từng trường...?

Bộ GD-ĐT quản lý đến từng tấmphôi bằng là một sự thụt lùi về quản lý. Đó là chưa kể hiện nay phương thức đàotạo đã thay đổi, chuyển từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. SVtuyển cùng một năm nhưng có thể không tốt nghiệp cùng năm, để quản lý đầu ra sẽphải kiểm soát được toàn bộ quá trình đào tạo, cấp phát văn bằng chứng chỉ(VBCC) không chỉ tính theo số chỉ tiêu tuyển vào mà căn cứ theo số lượng tốtnghiệp thực tế hằng năm. Vì vậy, càng nên giao cho nhà trường tự quản lý việc inấn, cấp phát bằng tốt nghiệp.

Phôi bằng bản thân nó không cógiá trị gì. Nó chỉ có giá trị khi trên đó có đủ thông tin, đủ căn cứ pháp lý (cóđủ thông tin về người học, có xác nhận của người có trách nhiệm, được lưu trữvào hồ sơ của nhà trường...). Còn với cách làm hiện nay, chúng ta đang biến mỗitấm phôi bằng dù chưa có những yếu tố kể trên vẫn có... giá trị pháp lý.

- Vậy theo ông, việc quản lývà cấp phát bằng tốt nghiệp ĐH, CĐ nên thay đổi như thế nào?

Tôi tin rằng không chỉ bản thântôi mà đông đảo những nhà nghiên cứu về giáo dục ĐH, cán bộ quản lý các cơ sởđào tạo đều cho rằng đã đến lúc ở VN cũng phải xác định bằng tốt nghiệp là củatrường ĐH. Toàn xã hội phải có thói quen bằng là của trường, không phải bằng củaBộ GD-ĐT.

Hiện tôi thấy nhiều quảng cáotuyển sinh của các cơ sở đào tạo thường có câu “người học sẽ được cấp bằng củaBộ GD-ĐT”. Điều đáng nói đó lại thường là những cơ sở, những chương trình đàotạo không có uy tín, chất lượng... Họ phải thuyết phục, lôi kéo người học bằngcái uy “cấp bằng của Bộ GD-ĐT”.

Để phù hợp với thực tiễn, việccấp phát văn bằng giáo dục nên được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Nhà nước,mà cụ thể là Bộ GD-ĐT, thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với việc cấp phátVBCC giáo dục ĐH thông qua việc ban hành quy chế VBCC giáo dục ĐH. Cơ quan quảnlý nhà nước cần có sự đổi mới tư duy về văn bằng giáo dục ĐH. Sẽ không có VBCCcủa Bộ GD-ĐT mà chỉ có VBCC của từng trường cụ thể. Tấm bằng đó thể hiện thươnghiệu, uy tín của từng trường.

- Phương thức này thật rakhông có gì mới lạ đối với các trường ĐH nước ngoài. Nhưng ở VN liệu đã đủ điềukiện để áp dụng, thưa ông?

Theo tôi là hoàn toàn khả thi, cóthể thực hiện được ngay. Đáng lẽ phải làm như thế từ lâu rồi.

Quản lý văn bằng như thế là “chăn dắt”
Sinh viên ngành báo chí - truyền thông khóa 2005 Trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG TP.HCM) tốt nghiệp tháng 11-2009. Nếu giao cho các trường cấp phát và quản lý, văn bằng tốt nghiệp vừa thể hiện được thương hiệu vừa thể hiện uy tín đào tạo của trường - (Ảnh: Thuận Thắng)

Quy chế quản lý VBCC có rồi, chỉcó một số nội dung không còn phù hợp. Nay cần soạn thảo lại, quy rõ trách nhiệmcủa từng cấp: của Bộ GD-ĐT, của sở, của trường ĐH, CĐ cụ thể hơn theo phươngthức quản lý mới: bộ chỉ quản lý nhà nước, trường thực hiện và tự chịu tráchnhiệm về việc cấp bằng tốt nghiệp. Tức là bộ chỉ làm nhiệm vụ quản lý những cơsở đào tạo được phép cấp bằng, còn việc cấp bằng do các cơ sở đào tạo tự thựchiện... Tự thực hiện nhưng phải theo quy định chung do Bộ GD-ĐT ban hành.

Bộ chỉ nên quy định mẫu và nộidung thông tin cơ bản bắt buộc phải thể hiện trên văn bằng tốt nghiệp. Còn thểhiện như thế nào phải do từng nhà trường tự quyết định. Theo tôi, cũng không cầnphải quy định cứng nhắc về kích cỡ, màu sắc, kiểu chữ... mà nên để tùy từngtrường. Thật ra trên một tấm bằng tốt nghiệp, tên và logo của trường mới là quantrọng, phải trở thành thông tin giá trị nhất mà xã hội cần quan tâm.

- Thưa ông, nhưng cũng khôngthể bỏ qua một khía cạnh khác, một trong những lý do Bộ GD-ĐT phải quản lý thốngnhất phôi bằng là để hạn chế tình trạng cấp phát bằng sai, sử dụng bằng giả?

Với công nghệ in ấn hiện đại hiệnnay, đặt ra vấn đề quản lý từng cái phôi bằng để chống làm giả là giải pháp vôduyên. Thực tế cũng đã chứng minh nhận định này của tôi. Bộ GD-ĐT hiện nay làđầu mối duy nhất in phôi bằng cho các trường với những quy định chặt chẽ nhằmmục tiêu chống làm giả nhưng rõ ràng bằng giả vẫn tồn tại và lưu hành trong xãhội ở nhiều đối tượng, với nhiều mục đích khác nhau.

Với công nghệ in ấn hiện nay,việc làm giả VBCC, ngay cả theo mẫu phôi bằng của Bộ GD-ĐT, không khó. Cho nêntheo tôi, kỹ thuật in ấn, trình bày chỉ là yếu tố để hạn chế làm giả. Còn đểquản lý VBCC, chống bằng giả không có cách gì hơn là quản lý bằng dữ liệu thôngtin, phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, công khai, minh bạch cácthông tin liên quan đến đào tạo và người học của từng cơ sở đào tạo. Nếu khôngkiểm tra là thể hiện sự vô trách nhiệm của cơ quan tuyển dụng.

Hiện nay, Bộ GD-ĐT chưa làm đượcviệc giao hoàn toàn cấp phát bằng tốt nghiệp cho các trường ĐH, theo tôi, chủyếu là do chưa có sự phân cấp rõ ràng, chưa có chế tài nghiêm khắc đối với lãnhđạo, mà đặc biệt là hiệu trưởng các trường có sai phạm trong việc quản lý cấpphát VBCC. Nếu để xảy ra sai phạm, phát hiện được phải xử lý rất nghiêm khắc...Cho đến nay, dù khá nhiều sai phạm liên quan đến VBCC ở các trường đã được pháthiện và xử lý nhưng hình như chưa có vị hiệu trưởng nào bị cách chức hay truytố...

Tôi rất tự hào về 2 tấm bằng của mình

Hiện nay ở hầu hết các nước, văn bằng chứng chỉ là do cơ sở giáo dục tự in và cấp cho người học tốt nghiệp. Đó là quyền và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đó. Bản thân tôi, bằng tốt nghiệp đại học là do Trường đại học Tổng hợp Hà Nội in và cấp năm 1966, còn bằng tiến sĩ là do Trường đại học Babes-Bolyai (Romania) cấp năm 1977.

Tôi rất tự hào về hai bằng này vì nó mang lại “thương hiệu” cho tôi và ngược lại trong những năm qua tôi cũng luôn ý thức mình có trách nhiệm giữ gìn và góp phần mang lại “thương hiệu” cho hai trường này. Từng bước giao cho các cơ sở giáo dục tự in và cấp văn bằng chứng chỉ của mình là đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở đó.

PGS.TS Lê Đức Ngọc (giám đốc Trung tâm Kiểm định, đo lường và đánh giá chất lượng giáo dục của Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ ngoài công lập)

TheoThanh Hà
Quản lý văn bằng như thế là “chăn dắt”