Ngân hàng Nhà nước giữ giá đồng USD, làm lợi cho những người có thể vay dễdàng như các tập đoàn và tạo thêm nhu cầu giả tạo, không phải nhằm đầu tư mànhằm đầu cơ. Những người không thể tiếp cận USD lại phải đổ xô mua vàng.

Vàng là gì? Vàng chỉ là quý kim, dùng làm vật trang sức. Nhưng có lúc, vàngtrở thành phương tiện thanh toán khi dân chúng mất tin tưởng vào đồng tiềnnội địa.

Việc biến, hoặc gắn vàng vào giá trị đồng tiền (chế độ kim bản vịngày xưa) tưởng là giải pháp nhưng thật ra là không vì không nền kinh tế nàocó thể kiểm soát được lượng cung vàng. Nó tuỳ thuộc vào lượng vàng sản xuấtvà đặc biệt là đầu cơ, không liên quan gì đến mức phát triển kinh tế và nhucầu thanh toán. Nó lại biến nhà nước bất cứ nơi đâu thành nạn nhân tế thầncủa các lực ngoại biên, và triệt tiêu khả năng làm chủ chính sách tiền tệcủa nhà nước.

Vàng trở về đúng vị trí quý kim của nó từ thời Tổng thống Mỹ Nixon, khiông ta quyết định xóa bỏ việc bảo đảm giá trị đồng USD bằng vàng. Chính sáchtiền tệ và chính sách tài khóa trở về đúng vị trí của nó là chính sách mànhà nước (qua ngân hàng trung ương và chi tiêu ngân sách) có thể dùng đểquản lý nền kinh tế, mà không bị trói buộc bởi những yếu tố nằm ngoài nó.

Trong quá khứ, lạm phát đã từng xảy ra chỉ vì đào được nhiều vàng, hoặccó khi ngược lại sự phát triển kinh tế bị hạn chế lại vì thiếu thanh khoảndo không thể tăng được lượng vàng lên.

Ngày nay, tăng cung hay hạn chế cung tiền có thể nằm trong tay nhà nước.Thí dụ các nhà kinh tế hiện đại đều biết rằng cung tiền thái quá sẽ tạo ralạm phát nhưng nhà chính trị thì có thể lại quá nôn nóng hoặc chủ quan muốnthực hiện điều gì đó mà cố tình quên đi nguyên lý này. Do đó mà lạm phát hayổn định tiền tệ là kết quả của chính chính sách kinh tế mà nhà cầm quyền đưara, và do đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng.

Giá vàng và cơn sốt đầu tư bầy đàn

Giá vàng tăng trên thị trường thế giới vì nền kinh tế thế giới bất ổn. Sựbất ổn này là do chính sách sai lầm của hai cường quốc Mỹ và Anh, mở cửa tựdo cho tư bản tài chính, cho phép phát hành các công cụ tài chính phái sinh,mà không có thế chấp, nhằm đầu cơ vào thị trường chứng khoán và thị trườngnhà đất, đẩy giá lên tưởng như không có chỗ dừng.

Nhưng rồi bong bóng ảotưởng vỡ vì giá cả vượt ngoài khả năng chi trả của người lao động. Giá xuốngđã đẩy hàng loạt các nhà đầu cơ phá sản, trong đó phần lớn là những ngườiđầu tư cá nhân nhỏ lẻ, chạy theo kiểu bầy đàn.

Để cứu nguy, các nền kinh tế phải bội chi ngân sách, phát hành thêm tíndụng để chặn đứng khủng hoảng. Giới đầu cơ trục lợi, rồi cả những người bìnhthường cho rằng như thế lạm phát toàn thế giới sẽ tăng và cổ động mua vàng.Giá vàng đã tăng vùn vụt.

Tình hình hiện nay ở Mỹ, cũng không khác gì tình hình đã từng xảy ra ởNhật, là doanh nghiệp chưa dám đầu tư vì phải cố gắng giảm tỷ lệ nợ quá lớndo trước đây đã chạy theo bong bóng.

(Ảnh: Hoàng Hà)

Ở Mỹ hiện nay, mặc dù lãi suất rất thấp, thanh khoản tràn đầy nhưng ít aidùng nên khả năng lạm phát ở Mỹ trong thời gian tới là rất thấp, hay có thểnói không có. Thời gian này có thể kéo dài tới 5-6 năm. Ở đây, với tốc độtăng việc làm khoảng 150.000 người/tháng thì cũng cần 6 năm để giải quyếtviệc 15 triệu người thất nghiệp, đưa tỷ lệ thất nghiệp từ 10 % xuống 3%.

Giávàng lên chỉ vì người ta nghĩ rằng lạm phát sẽ tăng mạnh. Nhưng nếu lạm phátkhông xảy ra thì giá đầu cơ hiện nay sẽ xuống. Khó có thể đoán là trong thờigian tới khi nào giá vàng sẽ xuống nhưng nó sẽ xuống, giống như sự lao dốccủa giá nhà đất và chứng khoán ở Mỹ.

Tấn công và tháo chạy của tư bản nướcngoài

Các quốc gia châu Á đã học được bài học năm 1997. Đó là cần làm chủphương tiện thanh toán của mình. Tài chính nước ngoài ồ ạt chảy vào các nướcchâu Á, đầu cơ vào thị trường địa ốc và chứng khoán, giá lên đến mức tưởngnhư châu Á mãi mãi là trung tâm thịnh vượng của thế giới. Chi tiêu ồ ạt. Cáncân thanh toán thiếu hụt. Chính sách của hầu hết mọi nước ở đây là chínhquyền quyết định tỷ giá đồng bạc.

Tình huống trên đã cho phép giới đầu cơtài chính mở cuộc tấn công vào nội tệ. Họ bán nội tệ, mua ngoại tệ, tạo ramột cuộc tháo chạy của giới tài chính đầu cơ. Giá nhà, giá chứng khoán xuống.Ngoại tệ tháo chạy đưa đến việc chính quyền các nước này phải huỷ bỏ tỷ giácứng.

Chính sách tự do dòng chảy tư bản mà IMF cổ vũ, kể cả ép buộc các nướcthành viên thực hiện, đã hoàn toàn thất bại. Suharto ở Indonesia sụp đổ. Chỉcó Malaysia chống lại IMF, ra lệnh cấm rồi hạn chế cuộc bán tống tháo chạytrên mà nền kinh tế đỡ bị ảnh hưởng nhất. Mở cửa hoàn toàn cho dòng chảy tưbản chính là tự làm mất quyền và khả năng kiểm soát lượng cung tiền quachính sách tiền tệ của mình.

Để vàng và USD Mỹ trở thành phương tiện thanh toán cũng là tự hy sinhquyền kiểm soát chính sách tiền tệ.

Cách nào kiểm soát giá vàng, USD?

Có thể nói một nền kinh tế bình thường là nền kinh tế ở đó nhà nước cóthể kiểm soát được phương tiện thanh toán. Khi phương tiện thanh toán vượtngoài tầm hoạt động của mình thì rõ ràng là có vấn đề. Để làm chủ được nềnkinh tế, tất cả mọi nước đều cố gắng làm chủ được phương tiện thanh toán,qua đó điều hành chính sách tiền tệ. Tất nhiên điều hành sai hay đúng làchuyện khác nhưng phải đặt nó trong tầm tay của mình.

Ngày trước, đã có lúc người Việt chỉ có tin vàng và USD Mỹ. Sau cải cáchtừ năm 1989, giá trị của đồng tiền Việt đã trở lại. Từ năm 2008, giá trịđồng tiền Việt giảm đều, vàng và USD lại trở thành phương tiện thanh toántrong nước, tước bỏ đi một phần quan trọng khả năng điều hành kinh tế củanhà nước. Tất nhiên, lý do cơ bản là lạm phát, mà lạm phát là kết quả củachính sách chạy theo tốc độ GDP, bỏ tiền cho một số doanh nghiệp quốc doanhđầu tư không hiệu quả.

Để ổn định tình hình nhà nước cần điều chỉnh chính sách phát triển chạytheo chỉ tiêu số lượng như hiện nay, tức là phải giảm mức đầu tư, và như vậyphải tăng lãi suất nhằm thu hút tiền vào ngân hàng, và đồng thời tăng giátín dụng mà nhà đầu tư phải trả. Về mặt tiền tệ, dù là trong ngắn hạn, mọibiện pháp cần thiết là triệt tiêu việc biến vàng và USD thành phương tiệnthanh toán trong nền kinh tế, chứ không phải cổ vũ việc dùng chúng là tiền.

Nhưng Ngân hàng Nhà nước giữ giá đồng USD, làm lợi cho những người có thểvay dễ dàng (như các tập đoàn) và tạo thêm nhu cầu giả tạo, không phải nhằmđầu tư mà nhằm đầu cơ. Thiên hạ, những người không thể tiếp cận USD, phải đổxô mua vàng. Ngân hàng Nhà nước lại cho phép nhập vàng để giảm giá vàng. Màổn định giá vàng đâu có phải là nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước.

Tất nhiênlà tuyên bố như thế thì hy vọng sẽ tạo ra tâm lý giảm giá vàng. Nhưng nếunhập thì sẽ mất nguồn ngoại tệ, tạo thêm áp lực tăng giá trị của nó. Rồi lạicó những “kinh tế gia” đề nghị tạo ra tài khoản tiết kiệm vàng và trả lãicho nó.

Đây là hành động của thời bao cấp trước đây. Chứ hiện nay là phải làm saocó biện pháp xóa bỏ vàng như một phương tiện thanh toán. Và để làm điều nàydễ nhất là đánh thuế nhập hay xuất vàng. Giống như đánh thuế các cuộc tháochạy tư bản nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chúng đối với nền kinh tế mà nhiềunước đã làm.

Quan trọng hơn, cần thay đổi cách suy nghĩ theo hướng chạy đua đạt tốc độGDP, từ đó đầu tư cao mà thiếu hiệu quả, bội chi ngân sách, đẩy mạnh cungtiền để tài trợ bội chi, đưa đến lạm phát và sự mất giá của đồng bạc. Mọitiêu cực đang phát triển hiện nay là do cách tư duy này.

Theo Vũ Quang Việt
DĐDN