Theo lý giải của ông Đạt, giá sữa tăng ngoài vòng kiểm soát của cơ
quan quản lý vì hiện này thị trường đang có tình trạng độc quyền nhóm,
các hãng sữa cấu kết với nhau chi phối giá.
Theo Ths. Nguyễn Duy Đạt, Phó trưởng Bộ môn Kinh tế Quốc tế (Khoa Thương mại Quốc tế, Đại học Thương mại HN), sở dĩ hiện nay các hãng sữa có thể tăng giá liên tục là do cấu trúc của thị trường sữa có thể nói là có tính độc quyền cao (có thể tạm gọi là độc quyền nhóm) trong đó người bán (các hãng sữa) có sức mạnh thị trường lớn trong việc ấn định giá.
![]() |
Độc quyền nhóm đang quyết định giá bán sữa. |
Thực tế, thị trường sữa Việt Nam bị chi
phối bởi vài hãng sữa lớn. Các hãng này với sức mạnh về thương hiệu,
R&D (nghiên cứu và phát triển), hệ thống phân phối, các chuyên gia…
dễ dàng nắm vị thế dẫn đầu trên thị trường.
Họ có thể ấn định giá cao nhằm chiếm lợi nhuận độc quyền mà không cần lo
sợ sự cạnh tranh từ các hãng nhỏ hơn, do nhiều người tiêu dùng không
dám đem sức khỏe của trẻ nhỏ, người già để thử nghiệm các sản phẩm của
các hãng nhỏ.
Còn các hãng sữa nhỏ hơn, sữa nội khi thấy các hãng sữa lớn tăng giá,
thì cũng không lý do gì không tăng, khi mục đích cuối cùng của doanh
nghiệp vẫn là lợi nhuận.
Ông Đạt cho rằng, đó là cái gốc của vấn đề, khiến cho mọi biện pháp kiểm
soát giá chỉ là phần ngọn, không sớm thì muộn các hãng sữa sẽ có cách
lách các biện pháp kiểm soát giá. Dù ta có biết cũng không làm khác
được, người dân vẫn phải chấp nhận mua giá cao, vì con họ, người nhà họ
ốm không thể không dùng sữa.
Điều này được củng cố bởi tính bất đối xứng về mặt thông tin trên thị
trường sữa, khi nhà sản xuất nắm toàn bột thông tin về sản phẩm, còn
người mua chỉ biết những thông tin mà nhà sản xuất muốn cho họ biết
thông qua các kênh khác nhau. Đấy là do tính khó thẩm định của mặt hàng
sữa. Không chỉ nước ta, mà người tiêu dùng các nước khác cũng bị các
hãng lừa, vì sự kiểm định của người tiêu dùng là rất khó khăn, tại cửa
hàng anh không thể móc sữa ra thử được.
Ông Đạt dẫn chứng vụ sữa dê Danlait, dù độ đạm chỉ từ 12-18% không đủ
tiêu chuẩn để gọi là sữa (quy định VN độ đạm phải 34% mới gọi là sữa),
nhưng họ vẫn gắn mác sữa, rồi quảng cáo thổi phồng lên, người dân thấy
họ bảo tốt thì cũng chỉ biết là tốt, sao kiểm chứng được khi cơ quan
chức năng không vào cuộc. Vụ việc vỡ lở người ta mới té ngửa.
Tại Việt Nam, theo ông Đạt, giá sữa cao không chỉ vì giá nguyên liệu
cao, một phần cũng vì các chi phí thương mại là rất cao, cộng với chi
phí quảng cáo lớn cũng đội giá sữa và tất cả các chi phí này người tiêu
dùng đều phải gánh chịu. Trong khi thực tế tính trách nhiệm đối với xã
hội của doanh nghiệp Việt vẫn còn thấp.
Như vụ sữa Danlait, theo tờ khai hải quan của công ty Mạnh Cầm, giá nhập
về Việt Nam là 80.000 đồng/hộp, trong khi giá đến tay người tiêu dùng
là hơn 400.000 đồng/hộp, vậy là có khoảng 300 ngàn đồng (ngoài các khoản
thuế) là dành cho các chi phí thương mại, quảng cáo và lợi nhuận của
doanh nghiệp, đây là một con số quá cao. Nếu không có vụ lùm xùm vừa
qua, họ không công bố những giấy tờ đó thì làm sao người dân biết được.
Về giải pháp quản lý, theo ThS. Nguyễn Duy Đạt, trước mắt là quản lý
giá, nhưng về lâu dài phải giải quyết cái gốc của thị trường, là hạn chế
độc quyền, tăng tính cạnh tranh đi kèm với các biện pháp giảm tính bất
đối xứng thông tin trên thị trường sữa. Đồng thời, tạo sự giám sát của
cộng đồng với trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp kinh doanh sữa.
Để hạn chế độc quyền, tăng tính cạnh tranh trên thị trường sữa, ông Đạt
đề xuất cần xác định lại tỷ lệ xác định doanh nghiệp chiếm thị phần chi
phối trong những doanh nghiệp kinh doanh sữa. Đồng thời có những giải
pháp hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ phát triển.
Về lâu dài cũng cần cải cách nền kinh tế theo hướng giảm chi phí thương mại, hình thành thị trường đồng bộ; phát triển hệ thống kênh phân phối. Đồng thời cần nâng cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp...