Những ngày cuối năm, bên ngoàiđang là không khí rét mướt của mùa đông, là những bước đi dồn đuổi của thờigian, là những con đường Hà Nội trải dài trong dòng người chật chội, là nhữngdáng vẻ tất bật, lo toan trên từng gương mặt... Thế nhưng, khi bước chân vàonhững ngôi nhà chúng tôi lại cảm thấy lòng mình như chưa bao giờ ấm áp như thế.

1. Lưu giữ để bù đắp

Người ta bảo trẻ em thường thíchnhất là ngày Tết và khi lớn lên, những kỷ niệm đáng nhớ nhất của mỗi người cũngthường gắn với mỗi dịp Tết. Tuy nhiên, với PGS Trần Thị Băng Thanh (nhà nghiêncứu văn hóa Trung tại Việt Nam, Viện Văn học). Tết lại có những điều khác biệt,cô bé Băng Thanh mồ côi cha năm 4 tuổi. Lên năm tuổi, cô phải theo mẹ bỏ Hà Nộivề thành phố Nam Định ở cùng bà ngoại. Nhà ngoại có bốn người - toàn phụ nữ tảotần với công việc buôn bán ngô gạo. Những đêm mùa đông cuối năm của dạo ấy thậtdài và lạnh. Nạn đói 1945 đến. Rồi những ngày tiêu thổ kháng chiến. Bốn ngườiphụ nữ bắt đầu cho hành trình chạy bộ tản cư. Con đường mà mẹ con, bà cháu, họđi là suốt dọc thành phố Nam Định qua Lý Nhân, Vụ Bản, Ninh Bình rồi qua nhiềuvùng của tỉnh Thanh Hóa... Cuộc sống hơn 15 năm lưu lạc của Băng Thanh là mộttuổi thơ không có nhiều ấn tượng, đặc biệt về ngày Tết, ngoại trừ một đám cướiquê Tết năm 1946, đường sục bùn lầy với xác pháo và những trò chơi nghịch dạicủa con trẻ thôn quê. Cô cùng một cậu bé con ông chủ nhà đã cho gia đình cô ởnhờ, say mê trò chơi chào cờ mừng cuộc sống vừa giải phóng. Với cô, kỷ niệm tuổithơ là những năm lưu lạc, là ở nhà, chạy chợ, nuôi tằm, dệt vải để mưu sinh. Ấntượng nhất với cô bé giàu tâm hồn ấy chính là khung cảnh những làng quê thanhbình như trong cổ tích, những vùng quê gắn với tuổi thơ lưu lạc, với dặm dàigian khó của đất nước.

Sau này, PGS Băng Thanh đã dịch rất hay về dòngvăn học Ngô Thì, đặc biệt là những bài thơ vềcảnh và tình nơi đồng quê thôn dã. Đó cũng làmột phần trong công trình được Giải thưởng Nhànước về khoa học và công nghệ của cô.

Chuỗi ngày dài ấy đã chấm dứt khingười con gái thông minh, ham học, thi đỗ vào trường Đại học Sư phạm. Băng Thanhvà mẹ trở lại Hà Nội. Rồi cô lập gia đình riêng. Chồng cô là nhà nghiên cứu vănhóa Nguyễn Khắc Mai, dòng dõi "ngoại thích" hoàng tộc ở Huế. Kể từ ấy, PGS BăngThanh đã có một gia đình đầm ấm, nhưng sum họp đầy đủ bố mẹ con cái, bà cháu thìphải đến năm 1985, bởi chồng cô thường đi công tác xa, nhiều cái Tết luôn vắngnhà. Băng Thanh và mẹ thay nhau đi chợ chọn lá dong, gạo nếp...

Ngày 27 tháng Chạp, họ ngâm gạo,đãi đỗ để gói bánh chưng rồi bắc nồi lên luộc. Đêm của ngày gần cuối năm, nồibánh chưng luôn sùng sục trước sân nhà trong ánh lửa bập bùng. Sang đến đêm trừtịch, những người phụ nữ lại thay nhau ngâm đỗ, xay, lọc... để nấu nồi chè đậuđãi dành thắp hương cúng giao thừa và mời khách nhân ba ngày Tết... Từ khi đượcở nhà, chồng cô luôn lo phần sắm sửa cành đào, dựng lên trước sân nhà một câynêu và bày biện bàn thờ gia tiên...

Ngoảnh lại nhìn thời gian, đã hơn40 năm trôi qua. Theo PGS Băng Thanh, cuộc sống luôn đổi thay với những pháttriển cùng mất còn, mai một. Người mẹ của cô đã vĩnh viễn ra đi và PGS BăngThanh cũng lên chức bà... Song, cứ mỗi độ xuân sang, những gì thuộc về cái Tếttrong truyền thống vẫn được gia đình cô truyền lại cho thế hệ con, cháu.  Đókhông chỉ là "lối sống" của gia đình có cả vợ và chồng đều chuyên nghiên cứu vềvăn hóa, văn học cổ cận đại, còn là cách để cô bù đắp một phần những "thiếu hụt"về ký ức đẹp trong ngày Tết của suốt một thời niên thiếu.  Để rồi đến nay, vàonhững ngày Tết bất kỳ ai bước chân đến căn nhà khang trang, rộng rãi của côtrong phố Kim Hoa, quận Cầu Giấy, HN đều cảm nhận được một không khí thật Tết,thật ấm cúng cùng những nét đẹp văn hóa được bảo lưu và gìn giữ...

2. Lưu truyền để bền vững

Tết của ký ức và hiện tại

Nhiều người biết đến GS Vũ NgọcKhánh với tư cách chuyên gia nghiên cứu về văn hóa dân gian. Ông có khoảng 230đầu sách, trong đó có rất nhiều sách hay viết về phong tục lễ Tết trong giađình... Tuy nhiên, ít ai biết rằng, với ông, để có được những "vốn sống", nhữngcông trình nghiên cứu này thì một phần là do ông từng được sinh ra và lớn lêntrong một không gian thấm đẫm những gì được gọi là nét đẹp của truyền thốngtrong những ngày có Tết.

Quê hương của GS Vũ Ngọc Khánh ởNghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây nổi tiếng là vùng đất học cùngvới tên tuổi như: Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Xĩ... Trong suốt chiều dàiký ức tuổi thơ, ngày Tết đối với ông luôn là không khí gia đình đầm ấm và khungcảnh làng quê với rộn rã hội hè.

Năm nào cũng vậy, vào chiều 30Tết, cha ông thường treo lên những câu đối mà trước đó mẹ đã đi chợ mua về. Câuđối được viết bằng mực tàu trên nền giấy đỏ, gọi là câu đối xuân. Câu đối đượccha treo lên giữa nhà làm rực rỡ khung cảnh ngày Tết. Lời lẽ, ý tứ của những câuđối này nhiều khi không có gì đặc biệt lắm nhưng đọc vì rất hay vì nó nói lênnguyện vọng của nhiều người. Gần thời khắc Giao thừa, bao giờ mẹ ông cũng vàogiường đánh thức cậu con trai dậy. Khi ấy, trước mắt cậu bé Khánh luôn là hìnhảnh của người mẹ đang mở rộng cửa nhà, chuẩn bị thắp đèn dầu, sắp mâm. Mâm cúnggiao thừa của mẹ thường có xôi, chè, bánh chứng, hoa quả, một chân giò lợn hoặcmột con gà trống hoa (gà tơ) ngậm trên mỏ một bông hoa hồng... Dạo đó, nếu nhưcác nhà hàng xóm có thể chọn đốt pháo trong suốt ba ngày Tết thì riêng cha ôngchỉ chọn đốt vào đúng Giao thừa. Cha bảo "làm thế mới có ý nghĩa".

Ngay sau lễ cúng Giao thừa là lễmừng tuổi mới. Cha mẹ thường tặng cho cậu bé Khánh mấy đồng tiền để làm may. Sauđó, cả nhà ăn một chút xôi hoặc chè rồi ra vườn, hoặc ra đường, đi về hướngĐông, chọn bẻ một cành lá non, nhiều lộc, sai, đẹp mang về treo trong nhà...

Sáng mồng Một Tết, nhà ông giữtục xông nhà hay còn gọi là đập đất. Người ta cho rằng người đầu tiên bước vàocửa gia đình mình là người thế nào, đó là một điều quan trọng. Nếu đó là ngườinhanh nhẹn, hoạt bát thì tốt. Có năm cha ông còn tính tuổi xem có ai hợp với giađình mình thì đi dặn dò từ trước để nhờ họ xông nhà giúp.

Cũng trong những sáng mồng Mộtấy, cậu bé Khánh còn thường xuyên theo cha mẹ ra đình xem làng mở hội. Ba tiếngtrống đình vang lên in sâu vào tâm khảm ông. Tiếng thứ nhất là để tượng trưngcho lời chào trời đất, tiếng thứ hai là cầu cho mùa màng năm ấy được tốt tươi,tiếng thứ ba là để xua đuổi tà ma, mang lại sự an bình.  Ngay cả những trò chơinhư "tứ dân" với các nhân vật đóng vai sĩ, nông, công, thương, những trò hátđình, hát đối... cậu bé Khánh cũng rất thích thú và thuộc làu.

Ngày Vũ Ngọc Khánh vào cấp II,gia đình chuyển nhà từ Hà Tĩnh ra thành phố Vinh cho tiện học tập. 10 năm ởVinh, những ngày Tết quê với Khánh không còn nữa. Thay thế vào đó lại là ăm ắpnhững dấu ấn về trò chọi gà, đánh cờ, đánh đáo, những phiên chợ Tết tấp nập đôngvui, những ông đồ ngồi bán chữ và cả những tờ báo Tết, tờ tin Xuân được viếtbằng cả chữ Hán, Pháp và Quốc ngữ...

Tuổi 18 đến, Vũ Ngọc Khánh rờimiền Trung ra Hà Nội, vào đại học. Cuộc sống bắt đầu đổi thay với những điềuhòan toàn mới mẻ. Với Vũ Ngọc Khánh, những cái Tết trong truyền thống đã khôngcòn hiện hữu. Bởi thế ông bắt đầu "nhớ về Tết xưa" bằng cách duy trì những gìđược gọi là "truyền thống" trong gia đình của mình. Ông giữ lệ "khai bút" ngàyđầu xuân (liên tục trong suốt 60 năm qua) để viết những trang sách dành cho kýức tuổi thơ, cho nét đẹp của phong tục tập quán... Có lẽ vì thế mà hiện nay, giađình ông với 25 thành viên (trong đó có nhiều người nối nghiệp ông, có một Tiếnsĩ, hai Thạc sĩ, rất nhiều cử nhân, một nhà nghiên cứu văn hóa...) được gọi lànhững tấm gương tiêu biểu cho sự "đại phúc" trong tứ đại đồng đường. Để rồi hàngnăm, cứ vào ngày mồng 2 Tết, ngày làm lễ tiễn ông Vải về trời, GS Vũ Ngọc Khánhlại được chứng kiến cảnh con, cháu, chắt hội tụ, sum họp cùng nhau trong khôngkhí hòa thuận đầm ấm, chăm lo giữ nếp nhà.

3. Người luôn ăn Tết... ở quê

Với GS Mã Giang Lân (trường ĐHKHXH&NV, ĐH Quốc gia HN) đã có lần ông từng tự bạch một cách rất tự hào: "Tôisinh ra và lớn lên ở một nơi nửa làng, nửa phố. Trước nhà là sông Mã, bên hônglà núi Hàm Rồng...Khi học lớp 5, tôi đã được giải thưởng thơ toàn thành phố - đólà một bài thơ viết về quê hương... Quê hương trong ông luôn là dòng chảy thathiết khiến 50 năm rồi, năm nào ông cũng về xứ Thanh ăn Tết.

Tết với GS Mã Giang Lân cũng lạilà một chuỗi những ký ức tuổi thơ không thể phai mờ. Cha ông ngồi bên máy khâucặm cụi may quần áo thuê nhưng luôn gắng bớt chút thời gian, dành từng mảnh vảiđể sao cho sáu người con, ai cũng được một mảnh may áo mới. Còn mẹ, dù nhà khókhăn thế nào vẫn luôn để dành từng chút gạo nếp, đỗ xanh, mật mía để đêm Giaothừa làm cho các con những chiếc bánh nhãn, bánh gù, bánh chưng... Đình làng vàchùa Nam Ngạn ở ngay sau nhà. Đêm Giao thừa, trẻ con líu tíu theo chân người lớnlễ Phật, hái lộc, xông nhà cầu may... Những cái Tết với cậu bé Lân cũng gắn vớinhững sự kiện lớn của đất nước, dân tộc. Cách mạng tháng Tám 1945 thành côngmang lại niềm vui lớn: trẻ con được đến trường. Song, cuộc sống còn nhiều khốnkhổ, chạy giặc. Trước Tết 1946 là hạn hán rồi lụt lội, đói ăn, việc học phảigián đoạn... Tuy vậy, cậu bé Lân vẫn không ngừng tự học tự vươn lên.

Tuổi 20 đến tự lúc nào. Chàngtrai sông Mã ấy - người đầu tiên của vùng Nam Ngạn đỗ đại học đã tạm biệt bếnsông, tạm biệt gia đình lên chốn phố thị lập nghiệp. Song, dù có trở thành sinhviên ở chốn Hà thành, thành giảng viên đại học, rồi nhà nghiên cứu phê bình, nhàthơ, giáo sư là tác giả của hơn 40 đầu sách nghiên cứu văn học hiện đại có uytín, chất lượng... thì ở từng chặng đường đã qua, quê hương vẫn luôn "đầy ăm ắp"trong ông. Những bài ca dao, những công trình sưu tầm văn học dân gian, nhữngtác phẩm của ông luôn gắn với "hoa và dòng sông", với "trụ cầu Hàm Rồng", với"bình minh trên sông" bằng "một tình yêu như thế"... Sau này, nhiều công trìnhnghiên cứu về thơ, về những vấn đề lớn của văn học Việt Nam hiện đại vừa đượcsoi rọi bằng tư duy của nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, vừa chan chứa niềm tự hàovà tình yêu của người nặng lòng với quê hương, dân tộc.

Quê hương cũng níu kéo ông nhiềunhất vào mỗi độ xuân về. Kể từ năm 1961 rời làng ra HN, đến nay, gần 50 năm trôiqua, vào ngày Tết, căn nhà riêng của ông ở phố Cảm Hội, HN luôn đóng cửa. Cả nhàlên chuyến tàu ngược về quê hương đắm mình trong không khí gia đình với nếp nhàchốn ven sông từ bao đời ông cha để lại, để được vui sum họp vợ chồng con cái,được thăm thú cảnh chùa làng, bến sông, được chào hỏi họ hàng, được thưởng thứcnhững món bánh cổ truyền xứ Thanh và nhớ về những kỷ niệm... Tất cả những điềunày, theo ông, khiến người ta sống phong phú hơn, cảm thấy mình lại được như lúc"khởi đầu", được "nạp năng lượng" để bắt đầu cùng mùa xuân và bao điều tươi mới.

Theo Thu Hiền
Tết của ký ức và hiện tại