Chiếc xe du lịch đầy bụi nhanhchóng rời phà lên bến, đến gốc đa cổ thụ thì dừng lại. Một ông già to béo, bệ vệ,đầu đội mũ phớt, mắt đeo kính đen bước xuống. Sau ông là người đàn ông lịch sự,có phần hơi đỏm dáng. Từ phía bờ sông văng vẳng thánh thót làn điệu quan họ "Ngườivề em dặn í ì i câu này… Sông sâu là sâu chớ lội mà này cũng có ơ đò đầy, đò đầychớ ơ ớ qua…".

Họ dừng lại, chẳng biết để lắngnghe giọng hát đa tình quyến rũ hay vì sự hối hả trên đường. Họ tần ngần ngắmbãi ngô xanh mướt, con đê sừng sững uốn lượn, cái lô cốt bê tông bị che kín bởicái sạp hàng và cây đa có đến hàng trăm năm tuổi. Rồi họ cúi thấp bước vào quánông Chất. Ông già đứng sững trầm ngâm nhìn chủ quán, một tay bỏ kính, một tayrút khăn mùi xoa chấm khẽ lên đôi mắt một mí sáng và sắc, khẽ cất tiếng:

- Chào ông chủ.

- Không dám. Chào các ông.

Ông Chất cảm thấy là lạ. Ngườigià thường được dự báo bằng linh tính, bằng kinh nghiệm cả cuộc đời. Những bướcchân nhanh mà không vội, cái giọng nói trầm mà rõ. Tuy mắt ông không còn ánhsáng để nhận ra họ là ai, nhưng trong quầng sáng tưởng tượng, ông lại thấy hiệnra một con người. Người ấy chính là hắn. Để có thể khẳng định, ông buông một câukhông lấy gì làm thân thiện:

- Các ông muốn gì?

- Tôi… Tôi muốn phá cái thế cờông treo trên nóc quán mà từ dưới phà mọi người đều nhìn thấy

Ông Chất hơi sững lại, đôi lôngmày rướn lên, vừa như mừng vui, vừa như giận dữ.

- Xin mời. Nhưng phải nói trướcnếu không phá nổi thì giá đắt đấy ông khách ạ.

- Xin vâng!

Bấy giờ ông khách mới nhìn khắpquán. Gọi là quán nhưng làm gì có gì? Một cái bệ xi măng: Một nửa vẽ bàn cờ, mộtnửa để ấm chén, một hộp kẹo và một hộp kính đựng mấy bao thuốc lá, một cáigiường con, chắc để ông lão ngả lưng những lúc mệt mỏi, thưa khách. Mọi thứ đềulẻ loi, đơn giản, có lẽ chỉ có cái điếu cày làm bằng ống pháo sáng, được chạmkhắc rất cầu kì, đặt trong chiếc vỏ bình ắc quy là đáng giá.

Khi ông Chất bỏ bộ quân cờ đựngtrong túi vải dù thì ông khách ngây người ngắm nghía, đôi mắt đăm đăm, vầng tránrộng nhăn lại như đang nghĩ về một kỉ niệm xa vời. Bộ quân cờ bằng sừng nhẵn lỳ,đen nhẫy, đặc biệt là các chữ viết vừa sắc nét, vừa bay bướm mà chắc chắn nhữngđồ nho ít chữ, những tay thợ bình thường không thể nào có được. Ông khách ngắmbộ quân cờ rồi lại nhìn ông Chất. Ông giơ hai tay về phía trước, miệng há hốc,nhưng rồi lại rụt tay về, từ từ ngồi xuống.

- Nào! Xin mời ông.

Ông Chất cao giọng thách thức.

- Vâng. Tôi xin phép. Mã một tiếnba.

- Được. Tướng năm tiến một. Ônglàm ơn đi giùm tôi.

- Ông… Ông…

Ông khách thốt lên những tiếngđứt quãng, nhìn sâu vào cặp kính chủ quán nghi ngờ, ái ngại.

- Có vậy tôi mới nhờ ông. Ông đitiếp đi.

- Vâng. Xe bảy bình năm.

- Ông thí xe à.

- Vâng.

- Chắc ông đã giải thế này rồi.

- Vâng! Nước chủ chốt là nước thứchín, thí nốt xe. Sau đó dùng mã tốt chiếu hết. Nếu bên ông đi đúng thì phảimười chín nước mới kết thúc. Đã bốn mươi năm tôi mới lại có dịp được giải thế cờnày.

Nhanh như cắt, tay trái ông Chấttóm chặt khuỷu tay ông khách, tay phải bóp chặt bả vai, ngón cái điểm huyệttrung phế.

- Dũng! Mày là thằng Dũng phảikhông?

Đồng thời với những động tácnhanh chính xác mà người ta không thể ngờ rằng một người khiếm thị lại có thểthực hiện được và câu hỏi bật ra từ cái miệng đã bắt đầu thều thào kia, là nhữnghình ảnh của một quá khứ xa vời, khắc vào thời gian những mảng sáng hào hùng,những mảng đen bi thảm.

 

Thế cờ định mệnh

Minh họa: Lê Tiến Vượng.

Ông Chất còn nhớ như in cái buổitối mùa thu cách đây bốn mươi năm. Khi mà mẹ Chất phải vất vả lắm mới kiếm đủmấy chục cau, nửa lít rượu sang nhà ông Phán Thơ hỏi Thắm cho Chất, thì đúng lúcấy bố mẹ Dũng cũng cho người bưng mấy mâm cau, gánh mấy vò rượu, mấy tút thuốcCôtáp, lại còn chục gói chè ngon để xin ông bà Phán cho Dũng làm tế tử. Ông bàPhán chẳng biết xử lí ra sao vì cả hai tuy giàu nghèo khác nhau nhưng đều lànhững người hàng xóm tối lửa tắt đèn, nghĩa tình trọn vẹn. Chất, Dũng, Thắm cùngở đội điệp báo đã lập được nhiều chiến công, lại thương quý nhau như anh em.Dũng là con nhà khá giả nên được học cả chữ Nho, chữ Tây, chữ Quốc ngữ, lại điềmđạm thông minh, dũng cảm, mưu trí, luôn là chỗ dựa cho cả đội. Chất tuy nhànghèo nhưng sáng dạ, khéo tay, thật thà, tốt bụng, chỉ phải cái tính nóng nhưlửa. Còn Thắm, Thắm là niềm tự hào của cả làng vì cô đã đẹp lại dịu dàng, thôngminh, trong chiến đấu lanh lợi, mưu lược chẳng thua gì cánh con trai. Khi ông ÔPhi Hà về làng dạy võ, trừ Dũng, Chất, còn lúc nào Thắm cũng thi đấu ngang ngửavới trai làng. Kể ra thì Chất và Dũng đều xứng đáng làm chồng Thắm. Bí quá, ôngPhán mới bày ra trò giải cờ thế. Nếu ai giải được cái thế ông gọi là ""Tiết nhânQuý nhất mã tranh hùng"" thì ông sẽ nhận làm con rể. Nói về văn thì Dũng hơnChất, võ bất phân thắng bại, chứ còn cờ tướng thì Chất chấp Dũng một mã. Đất LạcThổ quê Chất nổi tiếng nhiều ""Đế Thích"". Vùng Kinh Bắc, rồi cả tận xứ Đông, xứĐoài, hội hè có tổ chức thi đấu cờ thì thế nào cũng có người Lạc Thổ. Danh thủcác nơi không những mến mộ tài đức các đấu thủ đất Hồ mà còn say mê thích thúnhững thế cờ do các bậc tiền bối bày ra. Cái thế này Chất cũng đã có lần nghenói là phải thí cả hai xe, thế mà Chất vào giải đến nước thứ chín đã phải chịuthua. Đến lượt Dũng, Chất tin là Dũng cũng như mình, nào ngờ Dũng đi ào ào nhưđã học thuộc lòng, đến nước thứ mười chín thì ông Phán vỗ đùi.

- Giỏi ! Giỏi ! Đây là thế cờ màông nội tôi nhờ phúc lộc lập được cơ nghiệp, tôi cũng nhờ phúc mà được thế này.Làng ta là làng cờ nổi tiếng mà đã ai giải được đâu? Thế mà anh giải được. Giỏi,giỏi. Tôi xin chấp nhận anh là rể.

Chất điếng người. Thế là hết. Lờinói của ông Phán là đạo lý, là tờ giá thú không ai có quyền thay đổi. Chỉ cóđiều Chất không hiểu tại sao Dũng lại làm như vậy? Anh cũng biết Dũng rất yêuThắm, nhưng khi anh ngỏ lời, Dũng đã âm thầm nén tình cảm riêng, nhiều lần giúpanh hòa giải những lúc Thắm giận hờn. Với Thắm, Dũng là người bạn tốt nhất từhồi còn để chỏm, là người đồng chí vào sinh ra tử trong những trận đấu trí, đấulực với kẻ thù. Chất biết chưa bao giờ Thắm yêu Dũng. Với anh thì khác. Thắm đếnvới anh tự nhiên như bướm đến với hoa, êm đềm như đàn cò trắng sải cánh qua đồnglàng. Chất đã dìu Thắm vượt sông Đuống trong cái đêm đại náo đường 38. Cả haingất lịm bên bờ cát, đã cuồng nhiệt ôm nhau khi biết tên quan ba Đờxăngê khéttiếng tàn bạo đã bị trừ khử. Và lần ấy, lần sau nữa, sau nữa Thắm đã trao gửi cảđời mình cho Chất. Chẳng nhẽ Thắm đã quên hết rồi sao? Không, Chất phải gặp Thắm,nếu cần thì nói toạc ra cho cả ông bà Phán biết. Chất làm hiệu cho Thắm ra cổng.Thắm như người mất hồn đổ ập vào người Chất nức nở, rồi bỗng nín bặt dằn giọngnhư một mệnh lệnh: "Anh hãy quên em đi. Từ tối nay em đã là vợ anh Dũng rồi".Chất há hốc mồm, vừa ngạc nhiên, vừa uất ức. Chất không cam chịu. Anh tức tưởichạy một mạch về nhà dắt khẩu cônbát hằm hằm sục vào nhà Dũng. A! Lại cả Thắm.Hai khuôn mặt xanh xanh đỏ đỏ, nhăn nhăn nhó nhó, chẳng biết đang khóc hay đangcười. Chất chỉ muốn nhổ toẹt vào hai cái mặt ấy, găm vào hai cái miệng xoen xoétkia một loạt đạn rồi ra sao thì ra. Anh rút súng chĩa về phía hai người. Một vậtgì bay trúng trán, mắt anh hoa lên. Khi tỉnh lại chỉ thấy mẹ anh ngồi bên, buồnrầu khuyên giải. Anh vùng dậy định đi tìm Dũng, Thắm một lần nữa. Mẹ anh níu lạivừa khóc vừa nói:

- Con ơi! Ở đời không gì bằng cócủa. Người ta phụ bạc chẳng thấy đâu, chỉ mình chuốc lấy tiếng ghen tuông.

Bà cụ đóng chặt cửa buồng, canhchừng anh suốt đêm.

Sáng hôm sau cả làng nháo lên,bảo đêm qua Dũng, Thắm sợ Chất trả thù đã bỏ lên đồn theo Tây, làm Việt gian bánnước. Suốt nửa tháng sau, Chất tìm cách lọt vào bốt Hồ quyết tiêu diệt hai tênphản bội, loại bỏ hai kẻ lạc loài bôi nhọ đạo hiếu trung nghĩa mà ông cha đãngàn năm gìn giữ. Đến khi trên thông báo Dũng, Thắm được quan thầy đưa đi Hà Nội,rồi Sài Gòn, Chất thấy hẫng hụt buồn chán, xin đi thoát ly vào quân chủ lực. Nóiđúng hơn là Chất muốn chạy trốn, chạy trốn khỏi nỗi xấu hổ ê chề, khỏi sự tổnthương, chạy trốn những gì đẹp đẽ thân thương mà ba người đã có từ thủa ấu thơ.Rồi cũng nguôi ngoai chút ít cho đến sau trận đánh kết thúc chiến dịch Điện BiênPhủ thì những kỉ niệm ấy lại trỗi dậy mãnh liệt, giày vò Chất có lẽ suốt cả cuộcđời. Trận ấy đại đội chủ công của Chất được vinh dự trao lá cờ Quyết chiến Quyếtthắng. Buồn thay trận đánh đang lúc quyết liệt nhất, Chất bị bom napan cháy xémmặt mày. Đôi mắt cũng vĩnh viễn không còn ánh sáng. Chân trái lại bị mảnh pháogăm trúng bánh chè, phải trao quyền chỉ huy đại đội cho đại đội phó, lên đườngvề hậu phương.

Hòa bình, Chất xin về quê. Chaoôi, mẹ đã già yếu lắm rồi, chỉ mong Chất mau mau lấy vợ đẻ cho cụ một lũ cháu đểcụ bế, cụ bồng. Nhưng Chất không làm sao quên được Thắm, có lúc còn như thấy đãcó lỗi với cô. Đã thế cái mặt đầy sẹo, đôi mắt đui mù làm Chất đi đến quyết địnhsuốt đời ở vậy. Năm ngoái nghe tin vợ chồng Dũng ở Mỹ làm ăn giàu có lắm, đangchuẩn bị về thăm quê cung tiến tiền của khôi phục làng cờ, làng tranh, Chất bènnảy ra ý định mở cái quán bày cờ thế, cái thế đã đẩy Chất đến tận cùng sự đaukhổ nhưng cũng là cái thế vạch mặt chỉ tên lũ người bạc tình phản bạn. Cũng chỉlà chơi đỏ đen cùng số phận, chứ hy vọng gì gặp hắn. Thế mà giờ đây lại chính làhắn.

Ông khách vẫn điềm nhiên như cònđang mơ màng hồi tưởng. Rồi hai tay nắm lấy cánh tay ông Chất nói khẽ, giọng rấtbuồn:

- Vâng! Tôi đây. Dũng đây. Nhưngchuyện của chúng mình không như lâu nay người ta vẫn biết đâu.

- Bịp bợm. Đồ bịp bợm - Ông Chấtgầm lên.

- Anh hãy bĩnh tĩnh nghe tôi nói:Bốn mươi năm qua chưa bao giờ Thắm là vợ tôi, chưa bao giờ cô ấy quên anh, cũngnhư chưa bao giờ anh mất cô ấy.

Ông Chất há hốc mồm, buông thõnghai tay ngờ vực, căng thẳng. Lúc này mới thấy ông tàn tạ đau khổ hơn lâu nay mọingười vẫn tưởng: Vóc người cao lớn nay còng xuống giữ thăng bằng cho đôi châncứng khớp, mặt đầy sẹo chỗ đỏ, chỗ đen, hai hốc mắt biến dạng núp sau cặp kínhđen u tối, cái bướu to xám lù lù trên trán khiến khuôn mặt đã buồn lại càng thêmthất vọng, cô đơn.

Ông Dũng tiếp tục câu chuyện bằngmột câu hỏi:

- Anh còn nhớ anh Đình không?

Ông Chất gật đầu.

- Chính anh ấy là người đạo diễnviệc bố mẹ tôi đến hỏi trầu cau Thắm, đạo diễn thế cờ "Tiết nhân Quý" gì đó, vìchỉ có tôi và Thắm thích hợp cho nhiệm vụ đặc biệt sau này. Thắm đã đau khổ vậtvã, đã có lúc định bỏ nhiệm vụ trở về với anh. Năm 1961, chúng tôi bị mật vụ NgôĐình Cẩn phát hiện vây bắt. Thắm đã bình tĩnh mưu trí đánh cản đường để tôi đemtài liệu thoát vây. Trận ấy, Thắm hy sinh.

- Trời ơi!

Ông Chất gục xuống, người đàn ôngđứng tuổi vội đỡ lấy ông, đặt ông ngồi xuống.

Ông thều thào :

- Tôi… Tôi không sao. Ông kể tiếpđi.

- Vâng. Bọn giặc cay cú đã lộthết quần áo, bêu xác cô ấy hai tuần, phải nhờ đến lực lượng sinh viên đấu tranhbà con mới lấy được xác đem đi chôn cất. Lúc chia tay, Thắm dặn tôi: "Anh gặp máBẩy, bảo má đưa lại những thứ em gửi má. Nếu còn đến ngày toàn thắng, anh hãyđưa tận tay anh ấy. Được vậy em có chết cũng yên lòng". Hai tháng sau tôi mớigặp má Bẩy. Má đưa cho tôi túi nhỏ này.

Vừa nói ông Dũng vừa rút từ trongngực áo một túi vải màu tím đưa cho ông Chất. Ông Chất lập cập lần lần cởi sợidây đỏ, rút từ trong túi ra một phong thư và một quân cờ sừng. Đúng là bộ quâncờ ngày ấy. Thảo nào tìm đâu cũng không thấy quân tốt trắng. Ai ngờ…

- Anh có cần tôi đọc thư của Thắmkhông?

- Không. Tôi biết Thắm viết chotôi những gì. Tôi muốn coi đây là những kỉ vật mãi mãi huyền bí. Bây giờ ông kểtiếp đi.

- Sau trận ấy tôi phải chuyểncông tác, nhưng vẫn được ở trong ngành. Năm 1967 tôi mới xây dựng gia đình, cũnglà theo yêu cầu nhiệm vụ. Bây giờ mình đã già rồi và cũng tạm gọi là hoàn thànhnhiệm vụ, tôi sẽ xin nghỉ hưu về quê với ông, ta làm lại tình bạn như khi cònThắm. Nhà tôi đang mệt còn đang ở trong Tp HCM. Hôm nay chỉ có tôi và cháu đây.

Ông Dũng, một tay cầm tay ngườiđàn ông đứng tuổi, một tay cầm tay ông Chất kéo sát vào nhau.

- Cháu tên là Kì - Vương Văn Kì.Cháu là con Thắm, là con trai anh đấy!

Ông Chất rụt vội tay lại, đứngbật dậy:

- Sao? Ông nói sao? Ai là con tôi?Mà tôi làm gì có con?

- Xin anh bình tĩnh. Khi Thắm vàtôi ra đi, Thắm đã không dám báo cáo tổ chức là đang mang thai. Tám tháng sauThắm sinh con trai. Cô ấy nói là con anh, chắc xem thư anh sẽ rõ. Bây giờ anh cónhận không nào?

- Vâng! Vâng! Tôi nhận. Tôi khôngngờ…

 Rồi ông lao cả người về phíatrước, chới với, suýt nữa ngã sấp xuống bàn cờ, thảng thốt kêu lên:

- Con! Con ơi!

Người đàn ông có cái tên VươngVăn Kì ngơ ngác, quay lại hỏi ông Dũng:

- Bố. Thế là thế nào? Ông đây là…

- Là bố đẻ của con.

Kì vòng đôi tay rắn chắc ôm lấyông Chất, gục đầu vào vai ông, toàn thân rung lên, gọi trong tiếng nấc:

- Bố ơi!

Ông Chất ôm lấy con, hai tay sờsoạng, ông muốn tìm lại bóng hình Thắm. Ông rên lên:

- Con! Con ơi! Thắm ơi!

Hai hốc mắt đen ngòm của ôngchuyển màu đỏ hoe. Từ nơi ấy hai dòng nước mắt mặn chát tuôn ra như đã bị ứ đọngquá lâu qua bao nhiêu năm tháng. Ông buông con ra quay về phía ông Dũng.

- Ông Dũng. Ông Dũng đâu. Tôithật có lỗi. Tôi hồ đồ, nhỏ nhen, ti tiện quá. Tôi làm khổ ông, khổ Thắm. Tôikhông xứng. Xin ông tha thứ cho tôi.

Rồi ông quỳ xuống:

- Tha thứ cho tôi!

Ông Dũng vội vàng xốc nách, dìuông đứng dậy:

- Anh đâu có lỗi mà tha. Chẳngqua chỉ vì chiến tranh.

Rồi ông cầm lấy mấy quân cờ, nóirất vui:

- Cũng bộ quân cờ này, cũng thếcờ này năm xưa chia lìa đứt đoạn, năm nay lại giúp chúng mình sum họp bè bạn,cha con. Hay, hay thật!

Ngoài cửa quán vang lên một giọngnói khỏe, lễ phép:

- Thưa Đại tá, mời Đại tá ra xe.Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã ra tận đây đón Đại tá.

- Vâng. Tôi ra ngay. Anh thu xếpgiúp bác Chất đây rồi đưa bác và Thiếu tá về cả thể.

Ông quay lại đã thấy một đoànngười ăn mặc chỉnh tề đứng trước quán ông Chất. Thì ra họ đã im lặng chứng kiếncuộc gặp gỡ sau bốn mươi năm của những người con ưu tú làng cờ.

Đoàn người, xe con, xe máy, xeđạp lướt lên đê như cuộc hành quân chưa bao giờ dừng lại...

Theo H.G.

CAND