Trong nhiều nămqua, USD vẫn vững chắc ở vị trí độc tôn trong thanh toán quốc tế khiến nhiềunước "nóng mặt" và quyết tâm tìm cách "hạ bệ" đồng tiền này.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừaqua, giới đầu tư nhận ra rằng, hệ thống tài chính toàn cầu đang quá coi Mỹlà trung tâm và quá phụ thuộc vào đồng USD. Tình trạng này đã làm phát sinhquá nhiều vấn đề và được coi là một nguyên nhẫn dẫn đến suy thoái kinh tế.
Tại sao phải kiềm chế "sức mạnh" USD?
Theo phân tích của các chuyên gia, có ba nguyên nhân chủ chốt dẫn đếnviệc cần phải thay đổi cán cân tiền tệ quốc tế hiện nay.
Thứ nhất là vị thế thống trị của đồng USD với tư cách đồng tiền dự trữ vàcách Mỹ điều hành đồng tiền của mình. Đa số giao dịch và dự trữ ngoại hối làdưới dạng USD, cho dù Mỹ chỉ chiếm có 24% GDP toàn cầu. Thương mại quốc tếđa phần được thanh toán bằng USD. Điều đó không những phản ánh sai tình hìnhkinh tế thế giới mà còn khiến các nước khác dễ bị ảnh hưởng bởi chính sáchtiền tệ của bản thân nước Mỹ.
Thứ hai, hệ thống ấy đã tạo ra những kho dựtrữ ngoại hối khổng lồ, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi. Dự trữ toàncầu đã tăng từ 1,3 nghìn tỷ USD (5% GDP toàn cầu) năm 1995 lên 8,4 nghìn tỷUSD (14% GDP toàn cầu) hiện nay.
Trong đó, các nền kinh tế mới nổi nắm 2/3mà phần lớn là được tích trữ trong vòng 10 năm trở lại đây. Kho dự trữ khổnglồ ấy đi ngược lại logic kinh tế vì các nước nghèo đáng lẽ rất cần vốn đầutư tại nước mình lại đang cho các nước giàu, mà chủ yếu là Mỹ, vay với lãisuất rẻ mạt.
Những khoản cho vay ấy đẩy lãi suất dài hạn tại Mỹ xuống thấp khiến khủnghoảng tài chính càng dễ nổ ra hơn. Ngày nay, khi người Mỹ tiết kiệm nhiềuhơn chi tiêu và thế giới cần thêm sức cầu, kho dự trữ ấy chính là nhữngkhoản tiết kiệm không cần thiết.
![]() |
Sự thống trị của USD đã "khóa chặt" mọi cánh cửa cho các đồng tiền khác phát triển (Ảnh: Blogspot) |
Thứ ba là quy mô và sự bất ổn của các dòng vốn. Ba thập kỷ qua khủng hoảngtài chính nổ ra thường xuyên hơn. Nhiều chính trị gia cho rằng một hệ thốngtài chính trong đó các nền kinh tế mới nổi có thể bị tổn hại bởi dòng vốnngoại ào ạt đổ tới (như bây giờ) hoặc đột ngột khô cạn (như hồi 1997 - 1998hay năm 2008) không thể là nền tảng tốt nhất cho tăng trưởng dài hạn.
Các đồng tiền nội tệ"vùng dậy"
Sau khi “cơn bão” tài chính nổ ra, các chuyên gia kinh tế ra sức phântích lợi - hại của đồng USD trong giao dịch thương mại quốc tế còn lãnh đạocác nước cũng “đứng ngồi không yên”, nóng lòng đưa ra chiến lược nhằm “lật ngượctình thế”.
Đi đầu phải kể đến hai “ông lớn” là Nga và Trung Quốc. Có lẽ, lượng sức mìnhkhông thể “đơn thương độc mã” chống lại Mỹ và thay đổi tập quán thanh toánquốc tế đã thành “đường mòn” một sớm một chiều, hai quốc gia này quyết định“bắt tay”. Cuối năm ngoái, Trung Quốc và Nga đã ký thỏa thuận dùng Nhân dântệ (NDT) và ruble để thanh toán thương mại, thay vì dùng USD.
Các chuyên gia cho rằng, việc chuyển sang sử dụng đồng nội tệ trong buôn bánsong phương Nga -Trung hứa hẹn sẽ đem lại những lợi ích kinh tế, trong bốicảnh hai nước này có nhiều đối tác thương mại và tài chính muốn loại bỏ đồngUSD khỏi phương thức thanh toán.
Lợi ích kinh tế của các công ty Nga và Trung Quốc rất rõ ràng, bởi nếu loạibỏ được lệ phí chuyển đổi đồng ruble và NDT sang đồng USD, sẽ giảm đượcnhững rủi ro trên thị trường và trong việc thanh toán. Điều này có ý nghĩarất lớn trong bối cảnh đồng USD và các ngân hàng Mỹ đang bất ổn.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo chí Mỹ trước khi công du Washington, Chủtịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã đề cập đến vấn đề quốc tế hóa đồng NDT và sựcần thiết phải cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế. Mặt khác, cùng với sự pháttriển về kinh tế, Bắc Kinh cũng muốn tăng thêm sức mạnh và mở rộng ảnh hưởng,giảm bớt tình trạng phụ thuộc vào USD hay Euro, đồng thời cũng tránh đượcnhững áp lực đòi điều chỉnh tỷ giá từ phía các đối tác thương mại.
Nói là làm, tháng 7/2010, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã cho phép cáccông ty có mức tín nhiệm tốt ở Thượng Hải và bốn thành phố ở tỉnh Quảng Đôngđược dùng đồng NDT trong giao dịch với các đối tác ở Hong Kong, Macau và cácnước thuộc Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trước đó, trong cácgiao dịch thương mại quốc tế ở bên ngoài các khu thương mại biên giới đặcbiệt, các công ty Trung Quốc phải đổi đồng Nhân dân tệ sang USD hoặc cácđồng tiền khác để thanh toán.
|
"Con rồng" Trung Quốc đang nỗ lực quốc tế hóa đồng NDT (Ảnh: Freaking News) |
“Chương trình dùng NDT để thanh toán sẽ giúp tăng cường hoạt động thương mạisong phương với Hong Kong và các nước ASEAN. Đồng NDT có tỷ giá tương đối ổnđịnh với các đồng tiền chủ chốt khác. Một đồng NDT ổn định sẽ giúp các côngty kiểm soát được rủi ro tỷ giá”, Phó thống đốc Ngân hàng Trung ương TrungQuốc, Su Ning phát biểu.
Việc các công ty của Trung Quốc bắt đầu sử dụng đồng NDT trong giao dịchxuất nhập khẩu và Chính phủ Trung Quốc bán trái phiếu bằng đồng NDT ở nướcngoài thời gian qua là nhằm mục đích tăng sức hấp dẫn nắm giữ đồng tiền nàyđối với các ngân hàng trung ương trên thế giới.
“Đây là bước đi đầu tiêntrên một con đường dài tiến tới mục tiêu biến đồng NDT thành đồng tiền dựtrữ toàn cầu. Mục tiêu này có thể mất 5 năm hoặc hơn để trở thành hiện thực”,ông Nizam Idris, một chiến lược gia tại thị trường Singapore của ngân hànglớn nhất Thụy Sỹ UBS, nhận định.
Bên cạnh Nga và Trung Quốc, Ấn Độ cũng liên tiếp lên tiếng cho rằng, kinh tếthế giới đang quá phụ thuộc vào đồng USD. Ông Suresh Tendulkar, một cố vấnkinh tế của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh, phát biểu, ông đang thúc giục ẤnĐộ đa dạng hóa dự trữ ngoại hối thay vì tập trung nắm giữ đồng USD.
Việt Nam tính chuyện phi đô-la hóa
Là nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam cũng nằm trong “guồng quay” phiđô-la hóa của các nền kinh tế mới nổi và Việt Nam đã có những thành côngnhất định. Theo số liệu của ADB, tỷ lệ đô-la hóa trong tổng lượng tiền lưuthông ở Việt Nam là 20%, con số này cho thấy Việt Nam chỉ là quốc gia bị đô-lahóa một phần. Tuy nhiên, “một phần” đó cũng tạo ra những hạn chế nhất định,chẳng hạn như hạn chế trong việc triển khai chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông Jayant Menon, Vụ Hội nhập Kinh tế Khu vực Ngân hàng Phát triển Châu Á,phân tích, cần có những biện pháp trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.Giải pháp ngắn hạn là cần tăng cường hơn nữa động lực để người dân tiết kiệmbằng tiền đồng thay vì tiết kiệm bằng đồng USD hay vàng.
Ngoài ra, cần ápdụng tỷ lệ lãi suất khác biệt để khuyến khích việc gửi tiền dài hạn bằngtiền đồng, tránh việc gửi tiền đồng ngắn hạn sau đó rút ra có thể gây nêntình trạng bất ổn; giảm các biến động đột xuất hoặc sự bất ổn tỷ giá ngắnhạn.
Về trung hạn, Việt Nam cần có biện pháp quá độ, có thể bao gồm cơ chế gắnkết tiền tệ (CBA). Cơ chế này càng phù hợp hơn trong bối cảnh khủng hoảngkhi các nước vẫn duy trì quyền in tiền của mình, làm giảm những mặt tồn tạivốn lo ngại của Việt Nam, góp phần cải thiện niềm tin đối với đồng nội tệcủa Việt Nam.
Tất cả những yếu tố này phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của CBA.Để CBA có uy tín, Ngân hàng Nhà nước cần phải có nguồn dự trữ đủ để hỗ trợcho CBA, đây là một vấn đề đối với Việt Nam hiện nay bởi Việt Nam đang gặpkhó khăn trong dự trữ ngoại tệ.
![]() |
Việt Nam cũng nỗ lực đẩy nhanh tiến trình phi đô-la hóa của mình |
Đối với giải pháp dài hạn, ông Jayant Menon cho rằng điều quan trọng là phảibảo đảm tính bền vững và hiệu quả trong các chính sách.
“Khi thực hiện phi đô-la hóa cần phải đảm bảo rằng đó là những bước đi vữngchắc và với những kết quả cụ thể. Quá trình phi đô-la hóa có thể tạo ranhững vấn đề mới, đặc biệt trong việc duy trì sự ổn định về chính sách tỷgiá. Để thực hiện điều này, vấn đề xây dựng niềm tin là rất quan trọng, đểtạo niềm tin, cần xây dựng những thể chế phù hợp và phải bảo đảm thực thi nómột cách hiệu quả cũng như cần phát triển thị trường vốn hơn nữa”, ông nói.
Không chỉ là lý thuyết, Việt Nam đang dần biến đề án của mình thành hiệnthực. Tại hội nghị của Chính phủ với các địa phương tổ chức cuối năm 2010,Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết, đang xem xét việcđịnh hướng nhập khẩu một số mặt hàng bằng các ngoại tệ như Euro, yen Nhật,NDT…
Ngoài ra, Hội đồng Tư vấn tiền tệ Quốc gia quyết định đưa ra trình Chính phủđề án chống đô-la hóa. Các chuyên gia quốc tế cũng đã góp ý về đề án này.Trong đó có những tính toán mà nếu triển khai có thể tác động khá mạnh đếnthị trường.
Cụ thể, bước thứ nhất được tính đến là làm thế nào để hạn chế được cho vaybằng ngoại tệ, hoặc chỉ giới hạn cho vay những ngành nghề nhất định. Hướngkhuyến nghị mà chuyên gia này đưa ra là trước hết phải điều chỉnh tỷ lệ dựtrữ bắt buộc bằng ngoại tệ, gián tiếp tác động đến lãi suất.
Bước thứ hai làtiến tới hạn chế đối tượng và tiến tới chấm dứt cho vay bằng ngoại tệ, mặcdù vẫn tiếp tục huy động tiền gửi bằng ngoại tệ. Bước thứ ba là hạn chế nhậntiền gửi bằng ngoại tệ và tiến tới chấm dứt nhận tiền gửi bằng ngoại tệ.
Theo Phan Anh
Đất Việt