Tín dụng ngoại tệ có phải là“tội đồ” gây áp lực tăng tỷ giá khiến nhà điều hành tính chuyện “hãm phanh”?

Thông tin Ngân hàng Nhà nước đang tính chuyện “hãm phanh” tín dụng ngoại tệ cóvào cuối tuần qua có thể khiến cả ngân hàng và doanh nghiệp băn khoăn.

Cung ảo và áp lực cầu đáohạn?

Năm 2010, tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ vọt lên tới 37,76%. Thực ra, dotrước đó tăng trưởng loại này rất thấp, thậm chí có trạng thái âm trong nửa đầunăm 2009, nên con số tuyệt đối tăng lên chưa hẳn là quá lớn. Nhưng, diễn biếnnửa đầu năm 2011 tiếp tục cho thấy sự bùng nổ thực sự; tính đến 10/6, tăngtrưởng tín dụng ngoại tệ đã lên tới 22,21% so với đầu năm.

Diễn biến trên khiến các dòng chảy thông tin những ngày gần đây dồn dập những longại, dù không mới. Đó là việc doanh nghiệp đổ xô vay ngoại tệ, bán lại để lấyVND tranh thủ chênh lệch lãi suất lớn, tạo nên cung ảo và dồn áp lực cầu ngoạitệ khi các khoản vay đáo hạn vào cuối năm, gây bất lợi cho tỷ giá USD/VND…

Lo ngại này được dẫn chứng bằng thực tế leo thang của tỷ giá USD/VND trong nhữngtháng cuối năm 2010, sau khi tín dụng ngoại tệ đã tăng trưởng đột biến.

Về dẫn chứng đó, hiện chưa có các dữ liệu tổng hợp, phân tích một cách chuyênbiệt công bố để tạo cơ sở khẳng định hay phủ nhận. Còn tham khảo ý kiến của mộtsố cán bộ tín dụng ngân hàng, khó để có một “cuộc hẹn lớn” đáo hạn tín dụngngoại tệ vào cuối năm như vậy và dồn lại để cùng lúc tạo áp lực cầu lên tỷ giá.

Lý do, hoạt động giải ngân và trả nợ, hay tăng trưởng tín dụng, là trải khá đềutrong năm, chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn gối đầu nhau; bản thân các doanhnghiệp cũng chủ động vay ngắn hạn để dự phòng các cú sốc tỷ giá.

Lo ngại về áp lực trên cũng cần xét đến ở quy trình chuyển đổi của các dòng vốn,từ tín dụng sang thương mại và ngược lại.

Vay ngoại tệ thời gian qua chủ yếu là các doanh nghiệp xuất khẩu, họ có nguồnthu ngoại tệ trong tương lai. Vay ngoại tệ đổi ra VND đưa vào sản xuất kinhdoanh lúc này, khi đáo hạn họ có nguồn ngoại tệ thu từ xuất khẩu về đã cân đốiđể trả nợ. Vòng quay này thời gian qua vẫn được gọi là một cách “tạm ứng tươnglai”. Áp lực cầu ngoại tệ thương mại khi các hợp đồng đáo hạn ở đây là hạn chế,ngoại trừ hạn mức vay vượt quá nguồn thu - điều này được tổ chức tín dụng giámsát theo cơ chế quy định.

Tín dụng ngoại tệ có phải là “tội đồ”?
Áp lực đáng lo ngại nhất trong rổ tín dụng vẫn là nhu cầu dùng để thanh toán hàng nhập khẩu mà không có nguồn thu ngoại tệ đối ứng

Ngay cả với nhu cầu vay ngoại tệ để đổi lấy VND đưa vào sản xuất kinh doanhkhông có nguồn thu ngoại tệ đối ứng trong tương lai, áp lực cầu khi đáo hạn cũngkhông hẳn quá lo ngại. Họ vay ngoại tệ, bán lại cho ngân hàng, khi cần ngoại tệtrả nợ, ngân hàng “trả lại” chính nguồn họ đã bán trước đó. Ở đây là sự cân đốikhá cân bằng, ngoại trừ biến động của tỷ giá ảnh hưởng đến chi phí của doanhnghiệp.

Vòng quay quy đổi của các nhu cầu tín dụng nói trên sẽ phản ánh ở trạng tháingoại tệ của các ngân hàng thương mại, mà sau đó là trạng thái dự trữ ngoại tệcủa Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan này là người mua bán sau cùng của vòng quay(nhưng sẵn sàng can thiệp bất cứ lúc nào cần). Trạng thái ngoại tệ tăng - giảmtheo vòng quay của sự quy đổi đó. Sự tăng - giảm là bình thường, thật khó để đòihỏi dự trữ ngoại tệ luôn tăng khi nhập siêu triền miên, hay cán cân tổng thểluôn thâm hụt lớn.

Áp lực đáng lo ngại nhất trong rổ tín dụng vẫn là nhu cầu dùng để thanh toánhàng nhập khẩu mà không có nguồn thu ngoại tệ đối ứng. Đi cùng với đó là cầungoại tệ thương mại cho nhập khẩu, và phía sau đó là tình trạng nhập siêu. Thờigian qua năm nào cũng cần tới 12 - 18 tỷ USD để bù đắp, trong khi vẫn còn tìnhtrạng nguồn ngoại tệ bị găm giữ trong dân cư và doanh nghiệp. Đây mới chính lànhững “tội đồ” của tỷ giá, hơn là “đổ cho” cả rổ tín dụng ngoại tệ.

Chặn hay nắn dòng vốn rẻ?

Thực ra không phải đến lúc này Ngân hàng Nhà nước mới tính đến chuyện siết lạitín dụng ngoại tệ.

Ngay từ tháng 6/2010, cơ quan này đã vào cuộc khi tăng trưởng cho vay loại nàybắt đầu bùng nổ. Một văn bản tăng cường quản lý liên quan đã được gửi tới các tổchức tín dụng tại thời điểm đó, bên cạnh việc phối hợp với Bộ Công Thương hạnchế cấp tín dụng ngoại tệ cho nhập khẩu.

Đầu năm 2011, định hướng trên tiếp tục được cụ thể ở cơ chế cho vay bằng ngoạitệ mới được ban hành; trong đó, điều kiện căn bản là đối tượng vay phải có vàcam kết, chứng minh có nguồn ngoại tệ đối ứng để trả nợ. Việc lách quy định đểvay dẫn đến tạo cung ảo, tạo áp lực cầu khi đáo hạn lại là vấn đề của quản lý vàgiám sát.

Còn với các nhu cầu vay ngoại tệ đúng theo quy định hiện hành (có nguồn đối ứngđể trả nợ), họ đang có một dòng vốn rẻ.

Tại hội thảo của Ngân hàng Quốc Tế (VIB) hồi đầu năm, lãnh đạo chuyên trách củangân hàng này cho biết họ vẫn tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nên vayngoại tệ, bởi chênh lệch lãi suất giữa vay VND với USD quá lớn và có thể “khấuhao” rủi ro biến động tỷ giá trong ngắn hạn…

Như những phân tích thời gian qua, tín dụng ngoại tệ lãi suất thấp đang tạo dòngvốn rẻ hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo điềukiện cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới, rộng hơn là góp phần hạn chếnhập siêu.

Và khi các nhà xuất khẩu tập trung vay ngoại tệ sẽ giảm tải cho nhu cầu vay vốnVND, tạo thêm một yếu tố hỗ trợ cho khả năng giảm lãi suất VND…

Nhưng nay, thông điệp “hãm phanh” tín dụng ngoại tệ tiếp tục được phát đi, cóthể dòng vốn rẻ đó sẽ bị thu hẹp. Đối tượng “siết” có lẽ sẽ là dòng tín dụng đápứng các nhu cầu nhập khẩu, đặc biệt là những trường hợp không có nguồn thu ngoạitệ đối ứng từ sản xuất kinh doanh mà phải mua từ các ngân hàng khi trả nợ. Nhómnày vốn đã có chủ trương “siết” chặt từ giữa năm 2010.

Hiện chưa rõ Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh như thế nào, bằng các công cụ nào,hay bằng các mệnh lệnh hành chính, đánh đồng các đối tượng hay sẽ có sự phânđịnh cụ thể…

Còn trên thực tế những năm gần đây, rào cản lớn nhất mà thị trường tạo ra đốivới tín dụng ngoại tệ là những cú sốc tỷ giá và khoảng cách của chênh lệch lãisuất.

Hiện tại, cùng với mức chênh lệch lãi suất vay VND với USD đang rất lớn, tỷ giábình quân liên ngân hàng đứng yên cả tháng qua, thì nhu cầu vay ngoại tệ sẽ vẫncòn lớn.

Theo Minh Đức
VnEconomy