Khi phần I bản đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ của PGS Bùi Hiền (phần phụ âm) được công bố trên truyền thông, công luận đã có những phản ứng trái chiều, trong đó nghiêng về phản đối.
Bài viết sau đây cũng là nối tiếp mạch suy nghĩ ấy khi PGS công bố tiếp phần II bản đề xuất với những cải tiến về hệ thống nguyên âm tiếng Việt.
Nhìn nhận nghiêm túc thì tiếng Việt của mình có rất nhiều điều bất hợp lý cả trăm năm nay, những bất hợp lý được hợp lý hoá bằng các quy ước mang tính mặc định trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ Việt.
Ví dụ các chữ cái c/k/q, r/d/gi, ng/ngh, g/gh... Những mặc định đó tồn tại lâu dần thành thói quen. Từ thói quen lâu dần thành chuẩn mực chính tả phổ thông và chuẩn mực là tiêu chí quan trọng thiết lập giá trị thẩm mỹ trong tâm thế người sử dụng ngôn ngữ Việt.
Bất hợp lý luôn tiềm tàng nhu cầu thay đổi để giảm thiểu tiến tới xoá bỏ nó, dần mang tới tính khoa học, thẩm mỹ cho tiếng Việt. Tuy nhiên, sự thay đổi thói quen đã hình thành hàng trăm năm là điều khó khăn, khó từ phương án thay đổi tới vấn đề giải quyết những hệ lụy cũ trong các văn bản hàng trăm năm nay, đặc biệt là khó khăn trong tâm thế tiếp nhận của cộng đồng.
Vậy vấn đề đặt ra là phải tìm phương án tốt nhất cho sự thay đổi, phương án ấy vừa khoa học, hợp lý, vừa không thay đổi quá nhiều những yếu tố có sẵn, tránh gây sốc cho cộng đồng.
Nhiều điểm bất cậpPhương án do PGS Bùi Hiền đề xuất có quá nhiều sự thay đổi chưa thuyết phục được người sử dụng tiếng Việt, cũng là chủ nhân đích thực của tài sản tinh thần quý giá của cộng đồng, dễ gây phản ứng tiêu cực cũng là dễ hiểu.
Nhiều ý kiến lý giải sự bất hợp lý, dẫn tới bất khả thi trong những phương án đề xuất của PGS, tôi chỉ xin đưa ra vài ý kiến rất nhỏ về những bất cập.
Thứ nhất, trước hết là sự bất ổn trong cách đặt vấn đề.
PGS Bùi Hiền nêu: Giải quyết khắc phục tình trạng viết sai chính tả bằng cách xoá bỏ ranh giới đúng - sai của các phụ âm. Dùng tiếng thủ đô Hà Nôi làm cơ sở ngữ âm cho việc xác định danh mục chữ cái tiếng Việt. Trong khi đó, tiếng của Hà Nội về cơ bản không phân biệt r/d; s/x; ch/tr... sẽ không thể đại diện cho cách phát âm của người Việt nói chung.
Thứ hai, tiếng nói có trước, chữ viết có sau để ghi âm tiếng nói. Vậy chữ phải thể hiện được đầy đủ các sắc độ tinh tế của tiếng nói, không thể xoá nhoà và đồng nhất các sắc độ ấy, không thể thay đổi chính âm và buộc người sử dụng ngôn ngữ chạy theo chính tả khi đồng nhất x/s; ch/tr; r/d...
Một trong những vẻ đẹp của tiếng Việt chính là sự phong phú, uyển chuyển tinh tế của ngữ âm. Ngữ âm được hình thành chủ yếu bởi thanh điệu, vần điệu, âm điệu, những yếu tố được cấu tạo trước hết bằng hệ thống phụ âm và nguyên âm! Sự khác nhau giữa các phụ âm r - d, ch - tr, x - s... tạo nên sắc điệu tinh tế cho các âm tiết khi phát âm.
Lấy ví dụ, sẽ không thể nhận ra vẻ đẹp của câu thơ "Những luồng run rẩy rung rinh lá" của Xuân Diệu. Câu "Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ Sao xót xa như rụng bàn tay" của Hoàng Cầm.
Câu "Chí cha chí chát khua giày dép/ Đen thủi đen thui cũng lụa là" của Trần Tế Xương. Hay ca từ "Trùng trùng quân đi như sóng... Trùng trùng say trong câu hát..." của Văn Cao... nếu phát âm theo hướng cải tiến quốc ngữ được đề xuất.
Sự thật không thể phủ nhận, đó là ngữ âm tạo nên KHÍ của ngôn ngữ, đó là cái tinh tế linh diệu của một ngôn ngữ! Chính vì thế, tôi cho rằng việc cải tiến nên hướng tới giải quyết những bất hợp lý đơn thuần về những chữ viết không làm phương hại tới ngữ âm.
Bảng chữ cái mới theo cải tiến của PGS.TS Bùi Hiền. Đồ hoạ: Minh Trí. |
Thứ ba, sau yếu tố ngữ âm là yếu tố từ vựng. Nghĩa biểu đạt của từ vựng liên quan chặt chẽ tới chữ viết. Nếu xoá nhoà ranh giới của ch/tr, s/x, r/d... sẽ xuất hiện những yêu tố đồng âm khác nghĩa rất phức tạp trong tiếng Việt.
Ví dụ hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng/ Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi" - người đọc phân biệt sự khác nhau giữa " truyền" (sự trao gửi những giá trị - chủ yếu tinh thần - qua thời gian) với "chuyền" ( việc chuyển chủ yêu các yếu tố vật chất trong không gian).
Phân biệt sự khác nhau giữa "sẻ" trong "chia sẻ" (chủ yếu hướng tới việc bày tỏ/ tâm tình/ đồng cảm... các giá trị tinh thần.Nếu là giá trị vật chất, cũng chủ yếu hướng tới cách bộc lộ tình cảm đùm bọc cảm thông như "nhường cơm sẻ áo"...) với " xẻ" (việc dùng một vật dụng như cưa, dao... để chia/cắt một đối tượng thường là hữu hình theo chiều dọc).
Hoặc phân biệt nghĩa các phát ngôn qua cách phát âm như "Không xa đâu Trường Sa ơi"; "- Anh ăn trưa chưa? - Anh chưa ăn trưa!"; "Của nhà chồng em trồng đấy"; "Loài trâu bò châu Á", "Da cô ấy dạo này trắng ra...". Đó là những hiện tượng ngôn ngữ rất khó phân biệt nếu giản lược các chữ cái theo đề xuất.
Mất đi tính phong phú, đặc sắc trong tiếng ViệtThứ tư, nguyên tắc PGS đưa ra để cải tiến tiếng Việt là mỗi âm vị chỉ ghi bằng một chữ cái (ký tự). Tuy nhiên, cách khắc phục của PGS lại nảy sinh một số vấn đề mới như sau:
Sẽ có trường hợp một chữ phải gánh trong nó nhiều âm. Ví dụ: C phải hàm chứa hai âm tr và ch; z hàm chứa r, d và gi. Bất cập đó dẫn tới sự tự loại bỏ một bộ phận âm vị không chỉ làm mất đi tính nhạc phong phú, đặc sắc trong tiếng Việt mà còn dẫn tới những đồng âm rất khó phân biệt như đã nói ở phần 2, 3.
Hoặc ngược lại, một âm vẫn hiện hữu trong nhiều chữ cái khác nhau.
Quan sát đoạn "Thử nghiệm trực tiếp" cua PGS Bùi Hiền - đoạn trích báo
Nhân dân ngày 16/12, có trường hợp như âm ă ghi là a trong âm tiết
"cách"; âm ă lại ghi là ă trong âm tiết "căn" (câu "...một kác kăn kơ,
bài bản...").
Theo nguyên tắc chính tả hiện hành, nếu nguyên âm đôi uô/ ươ/ iê là âm giữa vần thì ghi uô (rau muống), ghi ươ (tương đương), ghi iê (tiếng Việt), còn nếu đứng độc lập không có âm cuối vần thì chuyển thành ua (mua); ưa (mưa); ia (tia). Hàng trăm năm nay, sự chuyển âm này không còn là vấn đề với người sử dụng tiếng Việt.
Nay theo đề xuất của PGS Bùi Hiền, chữ a chỉ ghi âm a, và các trường hợp a đọc là ô (mua) sẽ trả lại là "muô"; a đọc là ơ (mưa) sẽ trả lại là "mươ"; a đọc là ê (tia) sẽ trả lại là " tiê"; a đọc là ă (tay) sẽ trả lại là "tăy".
Tuy nhiên, trường hợp âm â ghi â và ớ như trong các âm tiết: "tân" và "tớ" sẽ là hiện tượng một âm xuất hiện ở hai chữ cái trong khi nếu tuân thủ hệ thống cải tiến theo nguyên tắc một chữ ghi một âm thì chữ " tớ" phải chuyển thành "tấ".
Vậy là nguyên tắc một chữ ghi một âm của PGS đã không triệt để ngay trong chính hệ thống của ông.
Thứ năm, đề xuất cắt một nét của chữ "n", ghép liền với chữ "h" để ghi âm "nhờ" (nh) là đề xuất rất khó thuyết phục cả về tính khoa học lẫn thẩm mỹ.
Thứ sáu, sự cải tiến đồng bộ chữ viết Tiếng Việt sẽ tạo ra sự đứt đoạn của một giai đoạn văn hoá dân tộc.
Lần thứ nhất, số đông người Việt Nam đã khó khăn trước những di sản văn hoá, lịch sử sử dụng Hán ngữ; còn lần này lại là khó khăn thật trớ trêu trước di sản sử dụng Việt ngữ.
PGS nói không cần in lại toàn bộ sách báo, ấn phẩm, sách giáo khoa, hợp đồng kinh tế, giấy tờ... vì cho rằng những người biết quốc ngữ vẫn yên tâm sử dụng tất cả thứ đó tới hết đời.
Vậy nếu đề xuất này được thuc hiện, những thế hệ con cháu chúng ta sẽ tiếp nhận di sản văn hoá sử dụng chữ quốc ngữ hiện tại như thế nào nếu không biết đồng thời hai hệ thống ngôn ngữ?
Đưa ra giải pháp "in một số tác phẩm văn thơ cần thiết để phổ cập nhanh chóng" như thời dùng chữ quốc ngữ thay chữ Hán đầu thế kỷ trước sẽ mặc nhiên loại bỏ một phần lớn di sản văn hoá dân tộc. (Bởi nếu in lại nhiều sẽ là một vấn đề quá lớn cho ngân sách).
PGS dẫn chứng giấy khai sinh thời Pháp in ba thứ chữ: Chữ Pháp, chữ Nho, chữ quốc ngữ. Nếu theo sáng kiến này, lượng tiền của, công sức, thời gian... in ấn sẽ lớn gấp bao nhiêu lần 9% tiết kiệm được mà ông cho rằng cải tiến mới sẽ đem lại?
Đó là vài suy nghĩ ban đầu về những bất cập nếu chúng ta áp dụng đề xuất cải tiến tiếng Việt của PGS Bùi Hiền.