Chấn động từcuộc khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp đang có nguy cơ lan rộng sang một số quốc giaEU khác khiến các nước, nhất là những nước có nợ công lớn và thâm hụt ngân sáchkinh niên, phải đánh giá lại tình trạng tài khóa của mình.

Tại Việt Nam, tìnhtrạng nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu nâng cao chất lượng quản lý nợ côngcủa Việt Nam cũng trở nên cấp thiết.

Theo Bộ Tài chính,nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địaphương. Theo định nghĩa này, tổng số dư nợ công đến cuối năm 2009 của Việt Namước khoảng 44,7% GDP, trong đó nợ của Chính phủ là 35,4% GDP, nợ được Chính phủbảo lãnh là 7,9% GDP và nợ của chính quyền địa phương là 1,4% GDP.

Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam
Nợ công và cán cân ngân sách của Việt Nam (2001-2009) - Nguồn: EIU (số liệu 2009 là ước tính)

Khái niệm nợ côngnày của Bộ Tài chính hẹp hơn so với khái niệm phổ biến của quốc tế. Theo Hệthống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của LHQ về thương mại vàphát triển (UNCTAD), nợ công còn bao gồm các nghĩa vụ nợ của ngân hàng trungương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước) ở tấtcả các cấp chính quyền. Có lẽ đây là nguyên nhân làm cho số liệu về nợ công củaViệt Nam trong cơ sở dữ liệu của một số tổ chức quốc tế cao hơn hẳn so với sốliệu của Bộ Tài chính (xem biểu đồ).

Theo Cơ quan Tìnhbáo kinh tế (EIU), nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001lên 51% GDP vào năm 2009. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, mặc dù tỉ lệ nợ công củaViệt Nam vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng đã trở nên cao hơn so với tỉ lệ phổbiến 30-40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác.

Bên cạnh đó, một xuthế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2009, thâm hụt ngân sách (cảtrong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 9% GDP. Như vậy, trong khi nợcông tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này viphạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hômnay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai.

Hơn thế, thâm hụtngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng“báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bịgiảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợcông của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới. Cụ thể là, với tỉ lệ tiếtkiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tưnước ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư.

Nếu nhìn vào một sốdự án đầu tư cụ thể từ nay đến năm 2030 như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam(56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy điện hạt nhân ở NinhThuận (hơn 10 tỉ USD)... - trong đó nguồn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách và nợcông - có thể thấy nợ công sẽ tăng mỗi ngày.

Tính bền vững củanợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách mà còn phụ thuộc vào một sốnhân tố khác. Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng GDP cao là điềukiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy nhiên, nếu tăng trưởngGDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà không tăng đượcnăng suất thì chắc chắn đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm.

Có vẻ như điều nàysẽ xảy ra cho Việt Nam trong khoảng 7-10 năm tới, vì theo Viện Nghiên cứu quảnlý kinh tế trung ương, trong những năm gần đây tốc độ tăng năng suất của ViệtNam khá thấp, và tăng trưởng GDP chủ yếu nhờ vào việc gia tăng lao động và vốn.Theo dự báo của EIU, tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm của Việt Nam sẽ giảmcòn khoảng 5% sau năm 2020 và 3-4% sau năm 2030.

Mức lãi suất caokhiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ hơn, do vậy ảnh hưởng tớitính bền vững của nợ công. Mức lãi suất, đến lượt mình, lại phụ thuộc vào quanhệ cung cầu trên thị trường tiền tệ và kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế. Làmột nền kinh tế thâm dụng đầu tư, ở Việt Nam nhu cầu tín dụng luôn luôn cao vàlạm phát rất khó kiềm chế ở mức thấp.

Một bằng chứng cụthể là ngay cả khi mới chớm thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãisuất ở Việt Nam đã tăng nhanh trở lại, cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinhtế trong khu vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay bằng cách phát hành trái phiếutrong nước, lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự như vậy, khi Chính phủphát hành trái phiếu quốc tế, lợi suất phải trả cũng cao hơn so với các đối thủcạnh tranh (như Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn.

Bên cạnh đó, vớiviệc Việt Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưuđãi sẽ dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suấtcao hơn nhiều.

Bên cạnh tốc độtăng GDP, lạm phát và lãi suất, mức độ rủi ro của nợ công cũng phụ thuộc vào mộtsố biến số vĩ mô khác, chẳng hạn như mức thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữngoại hối của quốc gia. Trên những phương diện này, Việt Nam cũng đang có nhữngbất lợi đáng kể so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

Cần nhấn mạnh làviệc quản lý nợ công không chỉ liên quan đến trách nhiệm của Bộ Tài chính mà cònliên quan đến nhiều cơ quan khác.

Nói một cách kháiquát, quản lý nợ công có hai phương diện, đó là kinh tế vĩ mô và quản lý vi mô.Theo phương diện thứ nhất, quản lý nợ công phải được coi là một bộ phận hữu cơtrong hoạt động quản lý vĩ mô tổng thể của quốc gia, trong đó quan trọng nhất làổn định vĩ mô và tăng trưởng bền vững.

Theo phương diệnthứ hai, quản lý nợ công là một thành phần của quá trình quản lý và quản trịcông. Vì vậy, để quản lý nợ công tốt, cần có một sự phối hợp giữa các cơ quanhữu quan dưới sự điều hành chung một cách hiệu quả của chính phủ.

Theo Tính bền vững của nợ công ở Việt Nam