Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cuối cùng đã trượt khỏi thương vụ mua tàisản của Tập đoàn Dầu khí Anh BP ở Việt Nam, dù PVN luôn thể hiện những thôngđiệp ấn tượng cho sự hiện diện của mình.

Sở trường, sở đoản

Thương vụ trị giá 1,8 tỷ USD của công ty dầu khí lớn thứ 3 ở Nga, TNK -BP (50% cổ phần của BP, 50% còn lại của Tổ hợp AAR gồm các tập đoàn Alfa,Access và Renova) liên quan đến các tài sản của BP tại Việt Nam và Venezuelađã kết thúc những đồn đoán về danh tính người mua.

Dĩ nhiên, giá trị hợp đồng của riêng các tài sản tại Việt Nam không đượctiết lộ nhưng chắc chắn số tiền mà TNK-BP bỏ ra ở Việt Nam sẽ không thấp hơnnhiều so với Venezuela, nếu xét trên các lợi ích mà những tài sản này đangmang lại.

Trong thông báo của mình, BP cho hay, tổng sản lượng của BP tại Venezuelatương đương với 25.000 thùng dầu/ngày. Còn tổng sản lượng sản xuất của BPtại Việt Nam tương đương với 15.000 thùng dầu/ngày.

Nhưng lợi ích của BP tại Việt Nam không đong đếm cụ thể được như ởVenezuela khi ngoài khai thác khí tại Lô 06.1, BP còn lợi ích trong việc vậnchuyển khí vào bờ và góp vốn trong nhà máy điện Phú Mỹ 3.

Tổng vốn đầu tư của cả 3 dự án mà BP tham gia cổ phần ở Việt Nam là 1,379tỷ USD và đang hoạt động khá hiệu quả. Đơn cử như dự án phát triển mỏ khíLan Tây - Lan Đỏ kể từ khi đi vào hoạt động, tháng 4/2005 tới hết năm 2006đã thu hồi được khoảng 552 triệu USD và lợi nhuận đạt được cũng là 552 triệuUSD, không kể phần thu của bên Việt Nam.

Còn trong dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, với cổ phần 51%, PVN đãthu được gần 60 triệu USD lợi nhuận kể từ tháng 11/2002 tới cuối năm 2005.Điều này cũng đủ thấy, nếu muốn mua tài sản của BP, PVN chắc phải có khoảndằn túi gần tỷ USD, nhất là khi người bán đang cần tiền ngay chứ không chờtrả góp!

BP bên cạnh thông báo tới Chính phủ để xin được bán tài sản ở Việt Namcũng tiếp xúc chính thức với Bộ Công thương và cả đối tác Việt Nam trongliên doanh, mà ở đây là Tổng công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí (PVEP) -thành viên của PVN để thông báo quyết định của mình.

Điều này không có gì lạ bởi PVN cũng có quyền lợi liên quan trong các dựán này. Thậm chí PVN cũng đã cất công tìm kiếm tài liệu liên quan đến nhàmáy điện Phú Mỹ 3, dự án mà PVN không có cổ phần, để tìm kiếm cơ hội.

Nhưng bỏ ra cả tỷ USD để mua các tài sản đang sinh lợi này lại không dễdàng với PVN, nhất là khi cơ chế quản lý vốn của các DNNN cũng rất phức tạp.Bởi vậy “không biết gì” có lẽ là lý do thích hợp nhất để PVN nói về việckhông mua lại tài sản của BP.

Trên thực tế, trong đa phần các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí hiệncó tại Việt Nam, bên Việt Nam không phải tốn nhiều tiền cho các khâu chuẩnbị, thăm dò ban đầu mà một mũi khoan có thể tới vài triệu USD nhưng chưachắc đã có kết quả như mong muốn.

Trong giai đoạn phát triển, khai thác mỏ, phần góp vốn của nước chủ nhàcũng được quy định ở một tỷ lệ nhất định nhưng nếu dư dả, nước chủ nhà sẽ cóđiều kiện để tham gia với tỷ lệ lớn hơn, kèm theo đó là hiệu quả cũng tốthơn khi dầu ngày một khan hiếm và có giá trên thế giới. Bằng không, có thểtrả dần bằng nguồn dầu thu được.

Vì sao Petro Vietnam để “tuột” thương vụ mua lại BP?
Đầu tư vào lĩnh vực dầu khí rất gian truân, dù dầu thô là tài nguyên sẵn có

Tại Việt Nam, sau khoảng 30 năm kể từ ngày có hợp tác với đối tác Ngatrong Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro, số lượng các mỏ dầu khí doPVN tự thăm dò, khai thác cực kỳ hiếm hoi. Đi cùng với các đối tác nướcngoài và sử dụng phương thức “mỡ nó rán nó” là điều thường thấy trong các dựán khai thác dầu khí hiện nay khi lực vẫn bất tòng tâm.

Đáng chú ý là những lĩnh vực được PVN đầu tư ào ạt trong vài năm qua nhưtài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng… lại không phải là sở trường củangành dầu khí. Ngay cả sản xuất điện, phân bón nếu không có lợi thế mặc địnhtrong tham gia các dự án phát triển mỏ khí ngoài khơi thì việc kinh doanhphân bón hay bán điện đều không phải là sở trường của PVN.

Đáng nói trong khi đó, Công ty Dầu khí Malaysia là Petronas có cùng thờigian sinh ra với PVN lại đã phát triển lên những nấc thang cao hơn rất nhiềutrong chuyên ngành dầu khí.

Hiệu quả tổng thể

Trong tổng kết công tác đầu tư dự án Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất,điều khiến nhiều người băn khoăn là dự án triển khai mất 13 năm với vốn đầutư đội lên hơn 2 lần lại được tính toán là hiệu quả hơn so với các tính toántrước đây. Tổng mức đầu tư tạm tính hiện tại của NMLD Dung Quất là 3.053,5triệu USD, tương đương với hơn 51 nghìn tỷ đồng, cao hơn đáng kể so với dựtính 1,5 tỷ USD cách đây 13 năm.

Tuy nhiên, tổng giá trị quyết toán dự kiến và vốn lưu động ban đầu (43,80nghìn tỷ VNĐ) thấp hơn tổng mức đầu tư được duyệt (51,72 nghìn tỷ VNĐ) đượcPVN lý giải là bởi trong thời gian chạy thử, chưa được bàn giao chính thứctừ nhà thầu sang (chậm hơn 7 tháng do sự cố kỹ thuật), chủ đầu tư không phảichịu các chi phí vận hành trong khi vẫn có sản phẩm để bán lấy doanh thu.

Điều này khiến cho có chuyên gia đã nhận xét, nếu vậy cứ chưa giải quyếttriệt để hết các tồn tại như trên thực tế thì có phải “càng chạy càng có lãi”!?

Không một ai có thể phủ nhận được những hiệu quả về mặt xã hội mà NMLDDung Quất mang lại khi đặt tại miền Trung nhưng những hiệu quả về mặt kinhtế thì không đơn thuần chỉ là những con số. Về bản chất, NMLD Dung Quất làmột hình thức gia công, nhằm làm tăng giá trị của dầu thô đầu vào. Như vậy,trong doanh thu bán xăng dầu của NMLD Dung Quất có tính cả chi phí mua dầuđầu vào.

Trên thực tế, dầu thô Bạch Hổ khi đưa vào NMLD Dung Quất vẫn tính như khixuất khẩu. Khi đó, toàn bộ nguồn thu của dầu thô và thuế xuất khẩu của dầuthô Bạch Hổ này được tính cho Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro.

Theo các tính toán mới nhất được PVN đưa ra, với tổng mức đầu tư đượcduyệt 3,053 tỷ USD, trên cơ sở các chi phí đầu vào và cơ chế chính sách theoqui định hiện hành, dự án vẫn đạt tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là 7,66%,tổng thu nộp NSNN trong suốt đời dự án là khoảng 27,8 tỷ USD. IRR này cũngcao hơn so với IRR là 5,87% được tính toán vào thời điểm tháng 6/2005.

Tuynhiên, cần phải thấy rằng, IRR cao hơn hiện nay của dự án NMLD Dung Quất làbởi đã có các cơ chế tài chính nhất định được áp dụng cho dự án.

Ngoài công lọc dầu, hiện thế giới đang ở mức 5 - 6 USD/thùng, giá bánxăng dầu của NMLD Dung Quất tương đương như giá xăng dầu thị trường quốc tế(mà ở đây là thị trường Singapore) cộng với phần thu thuế hộ nhà nước theomức thuế suất nhập khẩu quy định hiện hành. Tuy nhiên, để tạo điều kiện choNMLD non trẻ này, một khoản tương đương với 7% thuế nhập khẩu xăng dầu cũngđược để lại cho NMLD.

Như vậy, nếu thuế nhập khẩu xăng dầu hiện hành là 20% thì NMLD Dung Quấtsẽ thu hộ ngân sách 13% thuế và được để lại 7% thuế cho hoạt động của mình.Bởi vậy, hiệu quả kinh tế cũng khác hẳn so với các tính toán trước đây -thời điểm chưa có các ưu đãi này.

Với công suất 6,5 triệu tấn dầu thô đầu vào/năm, tương đương khoảng148.000 thùng dầu/ngày, mỗi ngày doanh thu từ tiền lọc của NMLD Dung Quất(theo thời giá hiện nay) là khoảng 800.000 USD và một năm là 273 triệu USD.Dĩ nhiên, nếu chỉ con số này thì thời gian để thu hồi hơn 3 tỷ USD vốn đầutư đã bỏ ra, không kể các chi phí về tài chính, vốn vay, các nguyên liệuphục vụ cho việc lọc dầu là không ít.

Có lẽ, cũng bởi vậy mà trong dự án lọc dầu số 2 có quy mô khoảng 6 tỷUSD, PVN chỉ còn tham gia khoảng 25% cổ phần. Hay trong dự án Tổ hợp hóa dầuMiền Nam gần 4 tỷ USD, phần vốn góp của PVN cũng chỉ còn chiếm 18%.

Điều đó cho thấy đầu tư vào lĩnh vực chính là dầu khí cũng rất giantruân, dù dầu thô là tài nguyên sẵn có. Bởi vậy PVN có lẽ không ngại ngầnkhi đi tìm kiếm các lĩnh vực năng lượng khác như điện để không “bỏ trứng vào1 giỏ”.

Tuy nhiên, sau hơn 2 năm xung phong nhận cả 13 dự án điện mà Tập đoànĐiện lực (EVN) trả lại Chính phủ, mà trên thực tế chỉ được giao 3 dự án, PVNvẫn đang loay hoay tìm vốn để thúc đẩy triển khai chứ chưa bắt đầu xây dựngđược nhà máy nào.

Theo Thảo Du
DĐDN