Câu hỏilớn, lời đáp thuộc về tác giả và những khán giả trung thành của họ. Trong quákhứ, đã có nhiều trào lưu điện ảnh được nhìn nhận và phát triển, đã có nhiềuminh chứng lịch sử cho “cái nôi” của nghệ thuật thứ bảy. Còn ở thì hiện tại,người ta vẫn loay hoay giữa một Hollywood cường tráng và một châu Âu đắm mìnhtrong sự hoan lạc của những xúc cảm cá nhân.
>>
Thời vangbóng chưa xa

Vị thế nào cho điện ảnh châu Âu?
 

Đức, Ý, Pháp, Nga… là các nước có nền điện ảnh tiêu biểu tại châu Âu.Trong đó, Ý và Pháp vẫn là hai cái tên vĩ đại trong kĩ nghệ phim ảnh khu vựcnày. Một thập niên trở lại đây, trong khi Ý đang có dấu hiệu của một quý bà“xuống sắc” thì Pháp vẫn phần nào duy trì được bản lĩnh và tên tuổi của mình quahàng loạt những bộ phim tạo tiếng vang lớn với sự ra đời của nhiều ngôi sao điệnảnh thực thụ.

Nhìn lại quá khứ phải nhớ lại Luis Buñuel, người tiên phong cho màn ảnhTây Ban Nha với phong cách làm phim chủ nghĩa siêu thực nối kết giữa các thếgiới của thực tại - ảo tưởng và luôn luôn khiến người xem không thể lường trướcđược diễn biến với những chi tiết bất ngờ đáng kinh ngạc.

Các tác phẩm của Buñuel như: Los olvidados (1950), Viridiana (1961), Belle de jour(1967), The Discreet Charm of the Bourgeoisie(1972)… đưa ông vào vị trí những đạo diễn quan trọng nhất của lịch sửđiện ảnh. Sau khi Buñuel qua đời, người ta khó tìm lại được ánh hào quang củamàn ảnh xứ này chỉ đến khi xuất hiện Pedro Almodóvar vào cuối thập niên 80.

Còn phải kể thêm Michelangelo Antonioni (Ý), một trong số ít những huyềnthoại đáng nhớ với Blow-up (1966), tácphẩm kinh điển của điện ảnh thế giới và ảnh hưởng sâu sắc đến thế hệ những nhàlàm phim sau này. Còn đó Krzysztof Kieslowski (Ba Lan), người để lại cho đờinhững thước phim như The Double Life of Veronique (1991),Three Colors… mang tư tưởng bộc lộ giátrị về nền dân chủ và lòng khoan dung. Eric Rohmer (Pháp) – tiếng nói mang chấttự sự cá nhân đã hằn sâu vào lớp đạo diễn trẻ của cả châu Âu và châu Á.

 Andrei Tarkovsky (Nga) với những tác phẩm đi vào việc miêu tả sựvật và sự việc theo cái nhìn của triết học và phân tâm học. Bergman Ingmar (ThụyĐiển), nhà làm phim coi trọng tính biểu tượng và ẩn dụ, luôn đặt ra các câu hỏivề bản thể và sự cô đơn, cái chết và sự sống, đức tin và tình yêu…

Liên Hoan Phim - Tìm lại hào quangxưa

Vị thế nào cho điện ảnh châu Âu?
Những ngôi sao màn bạc châu Âu - những biểu tượng của điện ảnh thế giới:Brigitte Bardot và Sophia Loren (ảnh trên)

Để nhìn vào “đất sống” của điện ảnh châu Âu thì không đâu bằng việc điểmqua hàng loạt LHP quốc tế lớn mà những Cannes, Berlin, Venice vẫn có đủ sức đểnuôi dưỡng tài năng, những khám phá mang tính sáng tạo và cả việc duy trì mộtlượng người yêu nghệ thuật khắp nơi.

Sự đi xuống của điện ảnh Ý đãảnh hưởng không nhỏ đến LHP Venice, một LHP lâu đời nhất thế giới bởi các tácphẩm tham gia không còn ở đỉnh cao. Gần như chưa có một nhà làm phim trẻ của Ýthể hiện được cái tôi độc đáo của mình ở thì hiện tại.

Điện ảnhPháp thì đã có Cannes làm bệ phóng, khoảng 5 năm gần đây người ta mới thấy dầnsự vươn mình trở lại của đất nước này.

Điện ảnh Đức cũng đang được“khai phá” trở lại nhờ vào tên tuổi của nhà làm phim Fatih Akin với ba tác phẩmHead-On (2004),The Edge of Heaven (2007),Soul Kitchen (2009)… đều giành được cácgiải thưởng quan trọng của LHP Berlin, Cannes và Venice. Mới đây, người ta đánhgiá nữ đạo diễn Lucrecia Martel sẽ là dấu ấn tiếp theo của điện ảnh Tây Ban Nhanhờ cách kể chuyện “có mà như không” của mình quaLa ciénaga (2001) hayThe Headless Women (2008)…

LHP châu Âu là nơi tổng kếtlại những tên tuổi đi đầu trong khả năng dàn dựng và sáng tạo. Thành công mớinhất của Michael Haneke với phimThe White Ribbon (2009) – một đạodiễn Áo làm phim Pháp, Đức, Hollywood… là ví dụ xác thực nhất cho sự bền bỉ củađiện ảnh châu Âu trên bản đồ thế giới cho dù với nhiều người, nó chỉ còn tronghoài niệm.

Đi đâu vàvề đâu?

Vị thế nào cho điện ảnh châu Âu?

Tất cả mọi con đường đều dẫnđến… Hollywood. Sự hào phóng về vật chất của xứ “phù hoa” này đã kéo theo nhữngtài năng hàng đầu châu Âu. Một dạo, diễn viên tài sắc hai lần đề cử Oscar ngườiPháp, Isabelle Adjani, cũng đã qua Hollywood đóng cùngSharon Stone trong Diabolique (1996).Rồi Isabelle Huppert – một tên tuổi cùng thời khác, cũng đóngAmateur (1994),I Love Huckabees (2004) ở kinh đô điệnảnh.

Gần đâynhất Marion Cotillard, kể từ khi chiến thắng vang dội với tượng vàng Oscar choLa vie en Rose (2007), đã chuyển hẳn sang đóng phim Hollywood.Cùng với đó, các đạo diễn tên tuổi như Florian Henckel von Donnersmarck (phimThe Lives of Others) cũng đã sangHollywood để nhận lời dàn dựng The Tourist có ngôi sao Angelina Jolie hay Luc Besson, một nhàlàm phim thương mại rất thành công tại Pháp cũng chuyển sang Hollywood.

Việc những tài tử, nhà làmphim hàng đầu châu Âu rẽ… trái sang Hollywood không ít thì nhiều vẫn chứng tỏđược sức hấp dẫn của danh tiếng và tiền bạc của nước Mỹ. Và quan trọng hơn,Hollywood dù không hào hứng nhiều với những tư tưởng lớn nhưng họ thừa nhận tàinăng của châu Âu và sẵn sàng rải thảm đỏ đón chào.

 Bêncạnh đó, điều sống còn là Hollywood vẫn đang nắm trong tay cả một thị trườngkhổng lồ. Bao giờ châu Âu lấy lại hào quang xưa, bao giờ các nhà làm phim châuÂu sẽ thôi cằn nhằn “Những gì Hollywood làm được đến ngày hôm nay đều có nguồngốc châu Âu” và bao giờ châu Âu có bộ máy tiếp thị “khủng khiếp” hơn Hollywood?
 

Những trào lưu khởi nguồn từ châu Âu

Quattro passi tra le nuvole (1942) của đạo diễn Alessandro Blasetti đánh dấu sự ra đời của trào lưu Hiện thực mới (neorealismo). Trào lưu Hiện thực mới hồng (neorealismo rosa) ra đời sau đó với các ngôi sao như Sophia Loren, Gina Lollobrigida, Silvana Pampanini… cho đến dòng phim hài mà đầu tiên là I soliti Ignoti (1958) giới thiệu đến khán giả gương mặt của Monica Vitti. Năm 2009, bậc thầy phim kinh dị Dario Argento làm Giallo nhằm gợi nhớ lại dòng phim rùng rợn cùng tên được phát triển tại Ý những năm 50, 60.

The Cabinet of Dr. Caligari (1920) được cho là đi tiên phong của chủ nghĩa biểu hiện vẽ nên bức tranh trên màn ảnh với một phong cách xây dựng phi thực với những khối hình, những bức tranh được vẽ trên sàn và tường biểu trưng cho các đồ vật, câu chuyện về những ảo giác đen và một người điên.

French New Wave trở thành cụm từ quá đỗi quen thuộc với sinh viên chuyên ngành điện ảnh, những bài học của họ đến bằng tác phẩm đầu tiên làm thay đổi diện mạo điện ảnh Pháp nói riêng: Breathless (1959) của Jean Luc-Godard, Les Cousins (1959) của Claude Chabrol hay Jules et Jim (1962) của François Truffaut… Ngày nay, cả Jean Luc-Godard và Claude Chabrol đều duy trì khá tốt phong cách và tầm ảnh hưởng lớn lao của họ.

French Shock Cinema và New French Extremity nhằm ám chỉ sự ra đời táo bạo của những nhà làm phim trẻ tuổi như Christophe Honoré với Ma mère, Leos Cara với Pola X, Gaspar Noé với Irréversible, Claire Denis với Trouble Every Day… đa số các phim này đều bị dán nhãn NC-17 bởi hành vi bạo lực, bạo động và ái tình. Catherine Breillat có lẽ là một trong số rất ít những đạo diễn nữ thành công theo dòng semi-porn với toàn bộ tác phẩm sặc mùi tính dục và gây tranh cãi của chị hơn 30 năm qua.

Dogme 95 cũng gây được tiếng vang lớn khi trình làng một tài năng sáng tạo vượt bậc có tên Lars Von Trier. Hàng loạt những tác phẩm sau này của Von Trier mà mới nhất: Antichrist (2009) cũng tạo ra không ít điều tiếng. Với Dogme 95, người xem bị dồn vào thái cực của đường cùng với các nhân vật duy trì sự thích nghi hạn hẹp của họ với cuộc sống bên ngoài. Rosetta (1999) của anh em nhà Jean-Pierre Dardenne, theo phong cách này đã bất ngờ giành Cành cọ vàng, Von Trier cũng mang về phần thưởng tương tự với Dancer in the Dark (2000).

Theo Thể thao Văn hóa