![]() |
Mai mực |
Trong y học cổ truyền, mai mực có tên thuốc là ô tặc cốt hay hải phiêu tiêu,có vị mặn chát, mùi hơi tanh, tính ấm, không độc, có tác dụng cầm máu, giảmđau, làm se chống loét.
Chữa ho ra máu, băng huyết, trẻem chậm lớn: Ngày uống 4-8g bột mai mực có thể đến 12g.
Chữa đại tiện ra máu: Maimực nướng vàng, tán bột, mỗi lần uống 4-8g với nước sắc cây mộc tặc.
Chữa đau loét dạ dày, tátràng, ợ chua, đại tiện táo: Mai mực 20g, cam thảo 12g, thổ bôi mẫu 6g, tánnhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g trước bữa ăn khoảng nửa giờ.
Chữa cam tẩu mã, loét mũi,viêm tai chảy nước: Mai mực, hoàng liên, thanh đại, hồng đơn, tế tân, ngũbội tử, nhân trung bạch, mỗi thứ 12g, phèn phi 8g; mai hoa 4g. Từng thứ saoriêng trừ hồng đơn, mai hoa, thanh đại, rồi tán nhỏ mịn, trộn đều. Khi dùng, rắcbột lên vết thương, vết loét.
Chữa viêm tai có mủ: Lấybột mai mực rắc hoặc dùng tăm bông sạch thấm thuốc ngoáy vào tai.
Mang và mai cua biển
Mang cua biển là lớp xốp hình vảydài phủ lên mình cua, nằm dưới mai, gỡ khỏi mình cua biển.
Chữa chứng đái dầm: Mangcua biển rửa sạch lấy 20-30g, luộc chín cho trẻ ăn đều đặn hàng ngày. Dùng liền15-30 ngày.
Chữa chứng đau bụng ở phụ nữsau khi đẻ: Mai cua biển 1 cái, đập vỡ vụn, sao tồn tính, tán bột, uống vớirượu hâm nóng làm 2-3 lần trong ngày.
Chữa sưng tấy: Lấy mai cuabiển 5 cái phối hợp với xuyên sơn giáp 10g, gai bồ kết 7 cái. Tất cả sao vàng,tán nhỏ, rây bột mịn, uống trong ngày với rượu hâm nóng.
Vỏ ốc khổng
Được lấy từ ốc chín lỗ hay cửukhẩu, bào ngư. Ốc khổng bắt về rửa sạch cát và rêu bám ở ngoài vỏ, rồi rửa lạibằng nước muối sau đó cạy vỏ lấy thịt để riêng rồi phơi khô. Dược liệu có tênthuốc là thạch quyết minh, có vị mặn, tính bình, không độc, có tác dụng bổ ganthận, thanh nhiệt, làm sáng mắt.
Chủ trị chóng mặt, hoa mắt, thongmanh, mắt mờ có màng mộng, thị lực kém. Liều dùng hàng ngày là 4-8g dưới dạngthuốc bột hoặc 15-30g dưới dạng thuốc sắc. Thường dùng phối hợp với các vị thuốckhác trong những trường hợp sau:
![]() |
Chữa đau mắt, sợ chói: Vỏ ốckhổng, cúc hoa vàng và cam thảo (lượng bằng nhau) phơi khô, tán bột, ngày dùng4g chiêu với nước ấm, có thể dùng dạng thuốc sắc uống.
Chữa đau mắt đỏ, mắt kéo màng,đau nhói về tối: Vỏ ốc khổng nung thành vôi, cỏ tháp bút (mộc tặc) sao khô. Haithứ lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2g với nướcthang có 3 lát gừng và một quả táo, rồi ăn cả bã.
Chữa quáng gà: Vỏ ốc khổng, sơnthù, sơn dược, mỗi thứ 16g, cúc hoa, bạch truật lê, kỷ tử, đơn bì, bạch thược,phục linh, trạch tả, thục địa, mỗi thứ 12g. Tất cả phơi khô, tán nhỏ, rây bộtmịn trộn với mật làm thành viên. Mỗi ngày uống 20g chia làm 2 lần.
Vỏ hàu
Có thể nung khô hoặc tẩm dấm, rồi tán thành bột mịn mà dùng. Vỏ hàu chứacalci với hàm lượng cao dưới dạng muối carbonat, phosphat và sulphat, magiê,sắt, nhôm và chất hữu cơ, có vị mặn, chát, tính hơi lạnh, không độc, có tácdụng thanh nhiệt, hóa đờm, giải độc, lợi tiểu, trừ nóng khát, hư tổn, chữadi tinh, bạch đới, đái dắt, đau dạ dày, băng huyết.
Chữa mộng tinh, di tinh: Vỏ hàuđã chế biến 50g, lộc giác sương 50g. Trộn đều tán nhỏ, uống mỗi ngày 8-16g vớinước sắc dây tơ hồng 30g.
Chữa khí hư: Vỏ hàu 40g, phènchua phi 40g, tẩm đồng tiện (nước tiểu trẻ em), phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn,mỗi lần uống 4g.
Chữa đau dạ dày, ợ chua: Bột vỏhàu 8g, bột cam thảo 8g. Trộn đều, uống với nước ấm, dùng nhiều ngày.
Chữa đái rắt, đái són: Bột vỏ hàu40g, nhồi vào bong bóng lợn rồi nấu nhừ. Bỏ bột vỏ hàu, thái nhỏ bong bóng, ăntrong ngày.
Kinh nghiệm dân gian còn dùng bộtvỏ hàu uống với nước ấm, mỗi ngày 8g để chữa mồ hôi trộm, chứng nổi hạch.
Vỏ ngao chữa bệnh đường hô hấp.
Vỏ ngao
![]() |
Vỏ ngao chữa bệnh hô hấp |
Dược liệu có tênthuốc là văn cáp, cáp xác hay hải cáp phấn, có vị mặn, tính bình, có tác dụngthanh nhiệt, lợi thấp hóa đàm, chữa phiền nhiệt, đau họng, ho tức, ho đờm, bằnglâu, tràng nhạc, trĩ. Liều dùng hàng ngày 12-20g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốcbột để uống. Bột vỏ ngao 15g mỗi lần uống với rượu hâm nóng còn chữa được chứngđau bụng ở phụ nữ sau đẻ.
Theo TTƯT.DSCKII. Đỗ HuyBich
SK&ĐS