Ca mổ Việt Nam gây chấn động thế giới

Ca phẫu thuật tách cặp song sinh Nguyễn Việt và Nguyễn Đức vào ngày 4/10/1988 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử y học Việt Nam.

Hai anh em Việt và Đức (tại Kon Tum) từ khi sinh ra đã dính liền nhau ở phần bụng, chia sẻ hậu môn và bộ phận sinh dục, có ba chân trong đó một chân chung.

Cố GS.Viện sĩ Dương Quang Trung (Anh hùng lao động - Thầy thuốc nhân dân, nguyên Giám đốc Sở y tế TP.HCM) từng chia sẻ: “Sự kiện (ca phẫu thuật tách dính song sinh Việt - Đức) gây chấn động thành phố, cả nước và nước ngoài”.

Đây là ca tách dính thứ 7 trên thế giới và đầu tiên tại Việt Nam nên đã thu hút sự quan tâm của thế giới.

Theo cố GS.Viện sĩ Dương Quang Trung, thời điểm Việt Nam thực hiện ca phẫu thuật này là rất khó khăn. Khi đó, kinh tế đang bị cấm vận nên các mối quan hệ với các chuyên gia nước ngoài  gặp nhiều cản trở. Trong nước, cuộc chiến tranh dài kéo dài trước đó để lại hậu quả nặng nề.

Hai bé Việt - Đức sinh năm 1981. Bố mẹ bị phơi nhiễm với chất độc màu da cam khiến cho 2 bé dính liền rất phức tạp tại ngực, bụng.

be dinh nhau.jpg
Việt và Đức thời điểm còn dính nhau (ảnh tư liệu)

Năm 1982, Việt và Đức được chăm sóc tại Bệnh viện Từ Dũ. Tới năm 4 tuổi, anh trai Nguyễn Việt bị hội chứng não cấp, rơi vào hôn mê và có đe doạ tính mạng tới Đức.

Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) lên kế hoạch, quyết định tách rời cặp song sinh dính liền nhau.

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, chia sẻ thời điểm đó, sau khi được ngành y tế chấp thuận việc tách dính cặp song sinh Việt - Đức, Hội chữ Thập đỏ Nhật Bản đã hỗ trợ rất nhiều về trang thiết bị, chuyên gia. Tuy nhiên, khi sang Việt Nam, đoàn chuyên gia đã đề nghị đưa Việt - Đức về Nhật Bản điều trị.

Năm 1986, một đường bay đặc biệt cho phép 1 máy bay từ Nhật Bản bay sang Việt Nam đưa Việt và Đức sang Nhật Bản chăm sóc.

Theo GS Phượng, trên máy bay, nhiều lần Việt ngưng tim, bác sĩ phải hồi sức tim phổi. Tại Nhật Bản, các bác sĩ tiên lượng nếu mổ, nguy cơ một cháu tử vong. Do đó, các bác sĩ Nhật từ chối phẫu thuật. Việt và Đức đã được đưa trở lại Việt Nam.

Thời điểm đó, Việt không còn tri giác, thường xuyên bị sặc, cấp cứu. Mỗi lần vào thuốc cứu Việt, Đức cũng hôn mê theo. Nếu Việt mất thì Đức cũng sẽ chết. Việc tách rời cặp song sinh là nhu cầu không thể trì hoãn.

Sau 1 năm chuẩn bị, cuôc mổ tách dính Việt và Đức được thực hiện vào ngày 4/10/1988 với sự tham gia của 62 bác sĩ Việt Nam và Nhật Bản, một số quốc gia khác do Giáo sư, Bác sĩ Trần Đông A làm trưởng kíp mổ.

Trong hoàn cảnh mổ thiếu thốn, toàn bộ chi phí trang thiết bị, thuốc men đều được người dân Nhật Bản giúp đỡ. Ekip đã cố gắng để giữ mạng sống cho cả Việt và Đức.

Sau ca phẫu thuật, hai anh em đã được tách rời thành công. Cả Việt và Đức đều sống.

Thời điểm này, thế giới đã có 6 ca mổ tách dính song sinh. Trong đó, có 2 cặp sống cả hai, 2 cặp tử vong cả hai và 2 cặp 1 sống một mất. Ca mổ tách dính Việt và Đức khó hơn hẳn vì đây là ca mổ tách dính duy nhất mà 1 trong 2 bệnh nhi bị bại não. 

1 ca mổ của Việt Nam gây chấn động thế giới, được Guinness vinh danh: Chưa từng có trong lịch sử toàn cầu- Ảnh 2.

Ca phẫu thuật tách dính cặp song sinh (ảnh tư liệu).

Sau phẫu thuật, Việt sống thêm 19 năm và qua đời vào năm 2007. Đức hiện sống khỏe mạnh, đã lập gia đình và có hai con.

Trong lịch sử y khoa thế giới, chưa có ca mổ tách dính nào làm trên bệnh nhân bại não. Cho đến nay, thế giới vẫn chưa có ca mổ tương tự. 

GS Đông A cho biết ca mổ năm đó đã được ghi vào sách kỷ lục Guiness mà đến tận ngày nay vẫn chưa có ca mổ nào phá được kỷ lục. "Đó là ca mổ đầu tiên trên thế giới mà bệnh nhân là cặp song sinh, trong đó có một cháu bé bị bại não. Lịch sử y khoa chưa từng ghi nhận có bất kỳ ai tiến hành phẫu thuật trên một bệnh nhi bại não trong nhiều giờ đồng hồ như vậy. Sau khi ca mổ này thành công, người Mỹ đã học theo để tiến hành phẫu thuật tách dính 2 ca tiếp theo", GS Đông A cho biết.

GS Đông A nhận định ca tách dính song sinh này không những là thử thách đối với Việt Nam mà còn là khó khăn với cả thế giới thời điểm đó.

“Tuy nhiên, ca phẫu thuật cũng thành công, cả 2 bé Việt - Đức đều phục hồi. Sau mổ, hàng đoàn người, gồm đủ lứa tuổi nghề nghiệp, đến từ mọi miền đất nước đã đến thăm hai anh em và các bác sĩ khiến chúng tôi rất xúc động”, GS Đông A nhớ lại.

Câu chuyện truyền cảm hứng cho toàn thế giới

Câu chuyện của cặp song sinh Việt - Đức không chỉ là minh chứng cho sự tiến bộ của y học Việt Nam mà còn truyền cảm hứng về nghị lực sống.

GS Phượng cho hay: “Thành công của ca tách dính không chỉ đáng giá về mặt y khoa mà là thành công có giá trị rất lớn về mặt nhân văn. Chúng ta đã đem lại cho Đức một cuộc sống bình thường của 1 con người. Đức đã đi học, hoạt động xã hội, lấy vợ… Điều này có ý nghĩa hơn cả thành tựu về khoa học”.

Thành công của ca mổ không chỉ cứu sống Đức mà còn đánh dấu bước tiến quan trọng của y học Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhiều chuyên gia y tế quốc tế đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với đội ngũ y bác sĩ Việt Nam về khả năng và tinh thần vượt khó trong hoàn cảnh thiếu thốn về trang thiết bị và công nghệ y tế thời bấy giờ.

Ca phẫu thuật tách dính cặp song sinh Việt - Đức đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ bác sĩ và được nhắc đến trong các hội nghị y khoa quốc tế như một minh chứng cho sự tiến bộ và khả năng vượt qua thách thức của y học Việt Nam. Ca phẫu thuật này cũng đã mở ra cơ hội hợp tác và học hỏi giữa các chuyên gia y tế Việt Nam và quốc tế trong các ca phẫu thuật phức tạp sau này.

[Bài viết có sử dụng nguồn tư liệu từ bộ phim tài liệu "Ca mổ Việt - Đức 20 năm một tình người”, "Đằng sau ca mổ Việt Đức vang danh" và một số tài liệu khác.]

Theo doisongphapluat.nguoiduatin