Để sống qua thời kỳ giôngbão, các DN đã phải cắt giảm chi tiêu, tái cơ cấu, sa thải bớt nhân công và nínthở chờ cơn bão đi qua. Cuộc nín thở kéo dài khiến một bộ phận không nhỏ phảitắt thở.


Bạn tôi có một công ty truyềnthông, không lớn lắm nhưng việc làm khá đều, doanh thu mỗi năm dăm chục tỷ.Trừ mọi khoản chi tiêu, trong túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền bạc. Hơn thế,hắn rất bận, không biết vì bận thật hay vì túi tiền rủng rỉnh nên phải tỏ rabận để nâng tầm quan trọng?

Khi nền kinh tế khó khăn, cácDN đều phải tự thích ứng bằng cách cắt dần mọi khoản chi tiêu. Cũng chính vìthế, mới đây, bạn tôi bảo thị trường truyền thông thu hẹp dần, hẹp dần. Cáchợp đồng vì thế mà thưa dần, lợi nhuận giảm, không nuôi nổi quân, đànhchuyển văn phòng về nhà theo kiểu "home office". Công ty kiếm được việc thìthuê ngoài theo kiểu "out sourcing", không kiếm được thì ngồi chơi, xơinước. Ngồi chơi chán đành phải kiếm trò tiêu sầu, giết thời gian, chờ thịtrường ấm lên sẽ hoạt động trở lại.

Các chuyên gia kinh tế chorằng, con số 50.000 phá sản được công bố mới đây chỉ là phần nổi của tảngbăng. Trong một nền kinh tế mà thị trường chứng khoán ảm đạm, bất động sảnđóng băng, lạm phát tăng cao, trong khi đó lãi suất ngân hàng cao ngấtngưởng mà không dễ gì vay được thì chuyện DN "tắt thở" là điều dễ hiểu.Chính sách lãi suất đã bóp nghẹt khu vực sản xuất, và khuyến kích cách làmăn chụp giật. Gặp thương vụ nào hời, "đánh quả" xong, rút quân, còn làm ănchân phương đúng luật thì cầm chắc lỗ.

Để sống qua thời kỳ giông bãođó, các DN đã phải cắt giảm chi tiêu, tái cơ cấu, sa thải bớt nhân công vànín thở chờ cơn bão đi qua. Cuộc nín thở kéo dài khiến một bộ phận không nhỏphải tắt thở. Trở lại trường hợp của anh bạn tôi như đã nói ở trên, đã hơnnăm nay không phát sinh doanh thu. Cuối năm nộp báo cáo thuế cho đúng thủtục. Nếu khó khăn kéo dài chắc phải làm đơn xin tạm dừng hoạt động. Doanhnghiệp chưa chết về mặt pháp lý nhưng chết về mặt sinh học.

Bí vốn kéo dài: DN từ nín thở đến tắt thở
 

Tuy nhiên, không phải DN nàokhó khăn cùng làm đơn xin dừng hoạt động. Nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh nợnần kéo dài, trước sức ép của chủ nợ, đã chọn kế... "chuồn". Vậy là, các cơquan quản lý nhà nước như Thuế, Hải quan... chỉ biết rằng có một số lượng DNnhư thế như thế mất tích, còn cụ thể của việc lặn không sủi tăm đó thế nào?Bao giờ mới nổi lại là việc mà không phải ai cũng biết được.

Theo một nguồn tin không đượccông khai, đến thời điểm này, số DN phá sản không còn là dăm chục ngàn nhưchín tháng đầu năm ngoái mà đã vượt qua số 200.000. Con số này cũng phù hợpvới nhận định của một số chuyên gia nước ngoài: khoảng hơn 30% các DN ViệtNam đã lâm vào phá sản. Nền kinh tế suy trầm, sức mua giảm, các doanh nghiệpthu hẹp quy mô, hàng ngàn văn phòng, chi nhánh của các DN ở các đô thị lớnbị đóng cửa, công nhân mất việc làm, thị trường bất động sản đóng băng, kéotheo đó là những ngành công nghiệp liên quan như xi măng, sắt thép, vật liệunội thất đều giảm.

Điều nghịch lý là trong bốicảnh như vậy của nền kinh tế thì lĩnh vực tín dụng vẫn là mảnh đất màu mỡ,các NH thương mại vẫn ung dung bởi cơ chế lãi suất huy động và cho vay quáhấp dẫn. Hiện tại, với mức huy động vốn bình quân với lãi suất khoảng14%/năm, trong khi đó lãi suất cho vay hiện nay, dẫu đã giảm nhưng vẫn ở mứcbình quân là 16,23%/năm. Đặc biệt với lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/năm;lãi suất huy động USD bình quân là 4,65%/năm, cho vay là 6,83%. Như vậy, mứcchênh lệch giữa huy động và cho vay, thường xuyên lớn hơn 2%. Đây là điều màchỉ có ở Việt Nam.

Vậy làm thế nào để thoát khỏitình trạng trên? Trả lời câu hỏi này, TS Nguyễn Văn Nam, nguyên thành viênBan nghiên cứu của Thủ tướng chính phủ cho rằng, chính sách tiền tệ của tavẫn nửa vời. Việc kiểm soát lạm phát chủ yếu là dùng các biện pháp hànhchính mà chưa có những biện pháp về tài chính. Chi tiêu công kém hiệu quả,vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách, nguyên nhân chính của lạm phátvẫn chưa được xử lý một cách triệt để. Chính sách lãi suất vẫn bị một nhómcác NH thương mại chi phối mà chưa có một cuộc cạnh tranh sòng phẳng theo cơchế thị trường. Điều này, khiến các DN Việt Nam vẫn phải chịu chi phí giávốn cao kéo dài.

Về thị trường chứng khoán,chuyên gia kinh tế Nguyễn Thạc Hoát nhận xét, tuy đã khởi sắc nhưng chưa đủmạnh để hâm nóng nền kinh tế. Sự suy trầm kéo dài của thị trường bất độngsản như một bóng đen đè nặng mà vẫn chưa thấy ánh sáng. Để khắc phục tìnhtrạng này, Chính phủ và NHNN nên có chủ trương tiếp tục giảm lãi suất chovay đối với các DN và có lộ trình đưa lãi suất cho vay trở về mức11-12%/năm.

Việc thắt chặt tín dụng kéodài với các DN bất động sản khiến thị trường này không ngóc đầu dậy được.Với Việt Nam, thị trường bất động sản hiện chiếm khoảng 20% GDP, khi thịtrường này chưa tan băng thì chưa thể nói đến việc ấm lên của nền kinh tế.Đặc biệt là những khoản nợ xấu của các ngân hàng thương mại đang có nguy cơbiến thành nợ... thối nếu thị trường này không được phục hồi, hậu quả lúc đósẽ lớn hơn nhiều.

Một chuyên gia trong ngànhbất động sản cho rằng, đã đến lúc Chính phủ nên nới lỏng cho vay với thịtrường bất động sản. Đặc biệt là nên cho người tiêu dùng vay vốn với lãisuất ưu đãi để người dân mua căn hộ đầu tiên, đây là biện pháp vừa có tácdụng kích cầu thị trường, vừa có ý nghĩa dân sinh.

Một số chính sách khác cũngcần được hoàn thiện như thông qua đề án thành lập quỹ phát triển nhà ở vàquỹ đầu tư BĐS, quỹ tín thác BĐS nhằm tạo được nhiều kênh huy động vốn cungứng cho thị trường BĐS. Cùng với đó là những sửa đổi căn bản về luật đất đaiđể quyền sở hữu đất đai được trao cho người chủ thực sự chứ không còn lànhững khoảng trống chủ quyền mênh mông để một số quan chức vô lương tâm cóthể lấn chiếm một cách tuỳ tiện.

Doanh nghiệp là người línhtiên phong trên mặt trận kinh tế, hơn một phần ba số đó đã bị khai tử vìcuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự thương vong nào cũng để lại nỗi đauvà hậu quả khôn lường. Những chính sách tích cực đang được trông đợi vực dậynền kinh tế.

Theo VEF