Với một TTCK biến động và lình xình như năm 2010, câu hỏi: “Dùng phương phápphân tích nào?” để chọn lọc cổ phiếu, vạch ra chiến lược đầu tư khả thi,dường nh khó giải. Vậy phương pháp cho năm 2011 sẽ là gì?
Bài viết xin đưa ra một số điểm tích cực và hạn chế của các phương pháp phântích khi áp dụng tại TTCK Việt Nam.
Phân tích cơ bản
Sự tréo ngoe của TTCK Việt Nam đặt ra mối băn khoăn cho các nhà đầu tư theotrường phái cơ bản - lựa chọn cổ phiếu thông qua việc đánh giá chỉ số tài chínhcủa doanh nghiệp niêm yết (DNNY).
Trên thực tế, các cổ phiếu có chỉ số tài chínhtốt, minh bạch thông tin, thường không tăng giá, hoặc biến động không đáng kể,có thể gây ra sự thất vọng trong kết quả đầu tư. Trái ngược lại, các cổ phiếukhông có yếu tố cơ bản tốt hay các công ty hoạt động kinh doanh thường xuyênthua lỗ thì cổ phiếu có khi lại tăng giá chóng mặt.
Để lý giải điều này, cầnnhìn vào sức cầu của từng loại cổ phiếu khác nhau. Với các cổ phiếu bluechip,đối tượng mua vào chủ yếu là các quỹ đầu tư lớn, những tổ chức nước ngoài, cònđối với các cổ phiếu mệnh giá nhỏ (penny), lực cầu xuất phát từ nhà đầu tư cánhân hay những bàn tay “làm giá”.
Các nhà đầu tư tổ chức luôn coi phân tích cơ bản là kim chỉ nam trong việc lựachọn, định giá chứng khoán, do vậy, giá cổ phiếu bluechip chỉ tăng mạnh trongnhững đợt giải ngân liên tục của các tổ chức này.
Ở góc độ khác, tiêu chí đầu tưcủa nhà đầu tư cá nhân thường dựa trên thông tin có thể tác động lên giá cổphiếu hoặc hiệu ứng dư mua khối lượng lớn trong nhiều phiên. Do số lượng cổphiếu lưu hành ít, các cổ phiếu penny rất dễ bị thao túng gây ra sự tăng giá bấtthường, trái ngược với quy tắc giá trị cốt lõi của trường phái cơ bản.
Một điềuđáng nói khác là sự tin cậy của số liệu đầu vào cho phân tích cơ bản. Chất lượngbáo cáo tài chính (BCTC) của các DNNY hiện đặt ra dấu hỏi lớn về tính trung thực,chính xác của chúng. Thời gian gần đây, nảy sinh những vấn đề ghi nhận doanh thu/lợinhuận đột biến phục vụ cho mục đích chào bán chứng khoán như trường hợp của QuốcCường Gia Lai (QCG). Các DNNY có thể sử dụng nhiều thủ thuật để ghi nhận doanhthu ảo, giảm bớt chi phí, không trích lập dự phòng...
Nhà đầu tư khi đọc BCTCcũng nên lưu tâm tới ý kiến ngoại trừ của kiểm toán viên để xem xét mức độ trungthực trong việc khám “sức khỏe tài chính” của DNNY khi đưa ra quyết định đầu tư.
![]() |
Dùng phương pháp phân tích nào để chọn lọc cổ phiếu một cách chính xác là một câu hỏi khó giải trong điều kiện thị trường Việt Nam |
Phân tích kỹ thuật (PTKT)
Nền tảng của PTKT dựa trên số liệu trong quá khứ theo ba giả định cơ sở: biếnđộng thị trường phản ánh tất cả, giá dịch chuyển theo xu thế chung và lịch sửlặp lại. Các CTCK chủ yếu dựa trên phương pháp này để đưa ra những ngưỡng hỗ trợ/khángcự và kịch bản cho chỉ số VNIndex trong bản tin thị trường hàng ngày.
Yếu tố khác biệt rất cơ bản, có thể coi là điểm “chống chỉ định”, khi áp dụngPTKT với TTCK Việt Nam là biên độ giá trong phiên, khác hẳn với TTCK khác khôngáp dụng biên độ giá. Do vậy, dưới sự thao túng giá, hiện tượng tăng trần hếtbiên độ +/-5% trong nhiều phiên không còn quá xa lạ với nhà đầu tư. Với những cổphiếu bị thao túng giá, PTKT gần như không có giá trị do đồ thị giá được điềukhiển một cách có chủ đích, ép lên, xuống trái với lý thuyết kinh điển trongPTKT.
Ví dụ: khi đường giá vượt khỏi dải Bollinger Band (BB), thông thường giásẽ bị điều chỉnh vào bên trong dải BB này. Nhưng những cổ phiếu bị làm giá “siêuhạng” như AAA hay DHT, quy tắc này hoàn toàn bị phá vỡ bởi yếu tố “bàn tay vôhình”.
Ngoài ra, mô hình kỹ thuật kinh điển (pattern) (theo giả thuyết lịch sử lặp lại):vai đầu vai, hai đỉnh kép (double top), hai đáy kép (double bottom), rất khó cóthể áp dụng hiệu quả tại thị trường Việt Nam. Lý do vẫn là biên độ giá trongphiên, cộng thêm yếu tố tâm lý trong việc ra quyết định của nhà đầu tư. Khi thịtrường tăng không ai muốn bán, và ngược lại khi thị trường lao dốc thì đua nhauxả hàng.
Chính vì thế, nếu nhận biết đồ thị giá nhiều khả năng rơi vào nhữngtrường hợp như thế, nhà đầu tư chỉ khoanh tay đứng nhìn, không thể làm gì kháchơn vì cổ phiếu có lượng dư mua trần hoặc dư bán sàn rất lớn. Phân tích kỹ thuậtđược áp dụng rất phổ biến trong đầu tư chứng khoán, nhưng nhà đầu tư nên lưu ýhai điểm hạn chế trên để tránh áp dụng một cách máy móc cho các trường hợp cổphiếu bị thao túng giá.
Phân tích tâm lý
So với hai phương pháp trên, phân tích tâm lý chi phối khá nhiều trong quyếtđịnh đầu tư và ảnh hưởng cả phân tích cơ bản và kỹ thuật. Ví dụ thứ nhất, nhàđầu tư tự đặt cho mình cái “bẫy kỳ vọng” dựa trên số liệu tài chính “đẹp” củadoanh nghiệp (phân tích cơ bản) và mẫu hình kỹ thuật chuẩn mực. Đơn cử với mứcthu nhập trên cổ phần (EPS) là 7.000đ/cp, cổ phiếu ABC phải đạt mức giá kỳ vọng7x, đồng thời, diễn biến giá của ABC rơi vào mô hình “cốc và tay cầm” nên kiểugì cũng sẽ tăng giá mạnh.
Tuy nhiên, thị trường không đánh giá cao ABC do tínhchất ngành nghề nhiều rủi ro và tính thanh khoản thấp nên ABC chỉ đạt mức giácao nhất 4x. Nhà đầu tư vẫn tiếp tục nắm giữ, chờ đợi giá lên 7x, ngay cả khitoàn thị trường sụt giảm mạnh. Nhận định mang tính chủ quan, lệch pha với diễnbiến thị trường gây ra tổn thất tài sản lớn, trở nên rất phổ biến tại thị trườngViệt Nam.
Xét ví dụ thứ hai, tâm lý bầy đàn luôn hiện hữu và thể hiện ở sự biến động tháiquá của thị trường chứng khoán non trẻ.
Trong đợt tăng giá đầu tháng 12/2010,không thể lý giải được tại sao TTCK biểu hiện tích cực trong bối cảnh bất lợicủa kinh tế vĩ mô (lãi suất tăng, tỷ giá ngoại tệ và giá vàng biến động mạnh)!Xuất phát điểm từ một vài “đổm lửa nhỏ” mang tính đầu cơ mua gom hàng giá rẻ,cộng thêm việc chốt NAV (giá trị tài sản ròng) của các quỹ đầu tư, thị trườngbùng phát thành một cơn lốc màu xanh khi lượng tiền đổ vào đạt mức kỷ lục trongphiên ngày 14/12 với 5.000 tỷ đồng.
|
Trái với những lo ngại về nguồn vốn đầu tưhạn hẹp, người ta thấy một bài học tâm lý quen thuộc “không bán khi giá tăng vàquyết tâm bán khi giá giảm!” trở thành yếu tố bản lề trong kịch bản tăng giá củaTTCK Việt Nam.
Một ví dụ khác cho thấy tâm lý nhà đầu tư luôn nhạy cảm trước mọi phán đoán haydự báo. Khi hầu hết các CTCK nhận định thị trường có thể lên 650 điểm, thực tế,thị trường chỉ có thể đạt đỉnh ở 600 điểm do lo ngại việc đồng loạt hiện thựchóa lợi nhuận.
Ở khía cạnh đối lập, nhà đầu tư luôn “đi tắt đón đầu” thị trườngnếu phải xử lý những thông tin dự báo chỉ số sẽ xuống mức 170 điểm. Khi thịtrường giảm đến 200 điểm, hoạt động mua vào đồng loạt giúp chỉ số không thể giảmsâu tới mức kỳ vọng mà các CTCK nhận định. Yếu tố tâm lý luôn tác động và canthiệp sâu vào thị trường hơn là những gì chúng ta tưởng tượng !
Nhìn nhận một cách tổng quan, phân tích tâm lý đầu tư tỏ ra có những ưu điểmnhất định, bổ sung cho hai phương pháp truyền thống (cơ bản và kỹ thuật). Bảnthân hai phương pháp phân tích cơ bản và kỹ thuật đều chứa đựng hành động hayphản xạ của nhà đầu tư để xử lý thông tin đó. Để đầu tư thành công, nhà đầu tưphải kết hợp nhiều yếu tố, lựa chọn phương pháp đầu tư phù hợp, đặc biệt nghiêncứu yếu tố tâm lý đầu tư tại TTCK Việt Nam.
Theo Anh Quân
Doanh nhân