Mặc dù không đủ cơ sở pháp lý để kết tội bị can Trần Minh Anh vì số tiền quy kếtbị can này “chiếm đoạt” lại chính là tiền của bị can nhưng VKSNDTC vẫn chuyển hồsơ sang Tòa án. “Quả bóng” trách nhiệm được “đá” sang "sân" Tòa….

Sau khibáo chí phản ánh những oan sai của vụ án, Lãnh đạo VKSNDTC đã tiếp nhận thôngtin và chỉ đạo Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tội phạm về trậttự quản lý kinh tế và chức vụ (Vụ 1) “phải có ý kiến chính thức về vụ việc báocáo Phó Viện trưởng phụ trách khối”.

Khôngbiết kiểm sát viên của vụ án và lãnh đạo Vụ 1 báo cáo như thế nào về vụ việc,nhưng ngày 14/1, VKSNDTC tiếp tục ra cáo trạng truy tố bị can Trần Minh Anh. Nhưvậy, Lãnh đạo VKSNDTC đã không được biết hết những ẩn tình của vụ án hoặc phảitiếp tục “theo lao” kỳ án “hồn Trương Ba da hàng thịt” này đến cùng?.

Trở lạinội dung vụ án, sau khi TAND TP Hà Nội trả hồ sơ với 6 yêu cầu điều tra bổ sung,các cơ quan buộc tội đã không làm rõ được 3 trong số 6 yêu cầu của Tòa án; trongđó, có những nội dung cốt tử của việc buộc tội là phải chứng minh số tiền 3,5 tỷđồng mà bị can Trần Minh Anh bị quy kết đã chiếm đoạt không phải là của bị cannày mà phải là tài sản của Cty CK Bảo Việt.

Chuyển
 

Với cácchứng cứ của vụ án hiện nay cho thấy, ông Trần Minh Anh đang còn quan hệ vợchồng với con gái bà Bùi Thị Minh bằng hôn thú năm 1988. Số tiền 3,5 tỷ đồng trong tài khoản chứng khoán mang tên Bùi Thị Minh do ông Minh Anh mở nằm trongsố tiền 176 nghìn Euro do con ông Trần Minh Anh gửi về từ Đức qua tài khoản ngânhàng của bà Minh.

Hơn nữa,theo quy định của Luật Chứng khoán, hợp đồng mở tài khoản và các quy định củapháp luật về sở hữu thì Cty chứng khoán Bảo Việt không phải là chủ sở hữu sốtiền nên không thể bị “chiếm đoạt”. DN này là người quản lý tài sản cho kháchhàng; thậm chí, số tiền 3,5 tỷ đồng này, Cty quản lý cho chính ông Trần Minh Anhvì ông Minh Anh đã ký hợp đồng với Cty.

Cáotrạng của VKSNDTC cho rằng, ông Trần Minh Anh đã “gian dối” khi ký hợp đồng bằngtên người khác nên đã phạm tội cho dù với việc ký hợp đồng bằng tên người khác,ông Trần Minh Anh đã đưa cả đống tiền của mình cho Cty CK Bảo Việt quản lý. Vớilập luận này, VKSNDTC đã biến một giao dịch dân sự vô hiệu thành một sự kiệnphạm tội.

Bản cáotrạng lần thứ 2 của VKSNDTC cũng lờ đi việc giữa ông Trần Minh Anh và bà TrầnKim Ngân (con gái bà Minh) đang tồn tại quan hệ hôn nhân từ năm 1988. Sự việc đãđược CQĐT làm rõ: Năm 1988, ông Trần Minh Anh và bà Trần Kim Ngân kết hôn, cóđăng ký tại phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.

Khi haivợ chồng ông Trần Minh Anh sang Đức, bà Trần Kim Ngân đã “kết hôn” với 1 côngdân Đức để đủ điều kiện nhập tịch. Trong thực tế, vợ chồng ông Trần Minh Anh vẫnchung sống và kinh doanh nhà hàng chung. Năm 2007, ông Trần Minh Anh “kết hôn”lại với bà Ngân với tư cách là người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, làmthủ tục tại Sở Tư pháp Hà Nội. Cả hai đã giấu nhẹm đăng ký kết hôn cũ nên đãđược đăng ký lần 2. Năm 2008, Tòa án Hà Nội đã xử ly hôn vụ việc kết hôn lần 2này nhưng việc kết hôn năm 1988 vẫn còn tồn tại.

Trong kiến nghị của mình gửi VKSNDTC, Luật sư Trần Việt Hùng đã chỉ rõ sự việcbà Minh và vợ chồng ông Trần Minh Anh bàn bạc về việc “chơi chứng khoán”; mâuthuẫn của họ chỉ phát sinh khi ông Trần Minh Anh đệ đơn ly hôn. Như vậy, số tiềntrong tài khoản và lý do tại sao ông Trần Minh Anh sử dụng tên người khác để mởtài khoản đã cho thấy, đây thực sự là một tranh chấp dân sự giữa các thành viêntrong gia đình đã được biến thành một vụ phạm tội. Nhưng, dù VKSNDTC có “nhàonặn” thế nào chăng nữa thì cũng không thể che dấu được oan sai trong “kỳ án”này….

Hồ sơ của vụ án có dấu hiệu oan đã chuyển sang Tòa án, liệu bản án của Tòa có “chép” nguyên văn cáo trạng giống như cáo trạng là “bản sao” của kết luận điều tra hay không và TAND TP  Hà Nội có gánh trách nhiệm thay cho VKS không?. Chúng tôi có cuộc trao đổi với Luật sư Lê Văn Kiên để có thêm thông tin về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hiện nay.

- Thưa Luật sư, mới đây, 3 cơ quan tố tụng huyện Mỹ Đức, Hà Nội cùng đóng dấu “có tội” trên một văn bản mà sau đó trở thành nội dung của bản án, tình trạng này có phổ biến trong thời kỳ cải cách tư pháp hiện nay không?

- Theo nguyên tắc xét xử độc lập thì thẩm phán có quyền không nghe “chỉ đạo” của Chánh án trong quá trình xét xử. Tuy nhiên, tính độc lập hiện nay không tuyệt đối như vậy. Thực tế, tôi thấy, việc xét xử của thẩm phán vẫn phải báo cáo lãnh đạo của họ vì đó là nguyên tắc của quản lý hành chính và chuyên môn ở tòa án.

Còn, mối quan hệ giữa tòa án và các cơ quan khác thì tôi thấy khá độc lập. Trong các vụ án, cáo trạng có thể “chép” nguyên kết luận điều tra nhưng bản án thì không còn là bản sao của cáo trạng, đặc biệt là trong những vụ án oan sai.

- Ông có thể đưa ra các dẫn chứng cho việc xét xử độc lập trong các vụ án như vậy chứ không phải là tình trạng “bỏ túi” như vụ “tuyên trước khi xử” ở Mỹ Đức, Hà Nội?

- Có rất nhiều. Trong một vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ở Hưng Yên, khi khởi tố, Tòa án cũng tham gia “họp án” và cử thẩm phán “phối hợp” ngay khi khởi tố. Nhưng, khi hồ sơ chuyển qua tòa thì Tòa đã không tuyên án mà trả lại hồ sơ vì có dấu hiệu oan sai.

Ngay tại Hà Nội, vụ kỳ án mang tên Mai Thị Khánh cũng không thể khép lại sau 11 năm khởi tố vì Tòa đã không ra được phán quyết buộc tội. Hiện nay, VKSND tối cao vẫn phải ôm hồ sơ về để điều tra lại cho dù họ có 11 năm để làm điều này.

Đối với những vụ án có dấu hiệu oan sai như vụ án này, tôi cho rằng, Tòa án không dễ gì chấp nhận giải quyết hậu quả giống như việc VKS đã làm vì hiện nay, Tòa đang là cơ quan “ngoài cuộc” của việc oan sai. Nếu không đủ chứng cứ và cơ sở pháp lý mà cứ tuyên án buộc tội thì chả khác gì Tòa gánh rủi ro thay cho các cơ quan đã làm oan sai trước đó.

- Xin cảm ơn ông.


Theo Bình Minh
Pháp luật Việt Nam