Con đường trở thành ngôi saosố 1 trên thị trường ca nhạc của Đàm Vĩnh Hưng là một “ca” khá đặc biệt củashowbiz Việt. Giọng hát hoàn toàn bản năng,từ chất giọng đến kỹ thuật xử lý bài hát.

Ở tuổi 30, thời mà các ngôi saođã “chín hết” thì Hưng mới bắt đầu phát sáng. Và ở tuổi 40, khi nhiều ngôi saođã toan tính đường “hạ cánh an toàn” thì Hưng vẫn tiếp tục “bay” với những dự ánâm nhạc ngày càng hoành tráng hơn, những phát biểu ngày càng gây sốc hơn và quantrọng là, lượng công chúng bị Hưng thu phục có vẻ ngày một nhiều hơn.

Lạc thời

Không giống nhiều ca sĩ chọnnghiệp ca hát vì… không biết làm gì khác, vì mưu sinh làm giàu hay vì muốn nhanhnổi tiếng. Đàm Vĩnh Hưng (ĐVH) bỏ bê cả nghề cắt tóc để đi hát chỉ vì thích hát,sự nghiệp ban đầu khá lận đận. “Tôi đã hát trước 1996 nhiều năm, nhưng khôngđâu vào đâu, bị dang dở nửa chừng hoài. 1990 – 1991 tôi đã đi hát rồi, hát vòngvòng, xong rồi ngưng. 1993 – 1994 đi hát lại, hát rồi chán, không đâu vào đâulại dẹp. Ngày đó hát ít tiền. Tết là ngày nghỉ vui nhất nhưng mình phải chạy đihát 12 – 14 suất, lúc đó chạy hát tùm lum các công viên tụ điểm”. Tận năm1999, sau khi đã đoạt giải Tư cuộc thi Tiếng hát Truyền hình TP. HCM – giảithưởng cao nhất giành được sau… 8 lần đi thi, Hưng vẫn còn chạy xe máy đi hátđám cưới tận Củ Chi tới mức đến trễ một show diễn. Cát sê hát đám cưới lúc đóchỉ 20 – 30 ngàn đồng.

Đàm Vĩnh Hưng: Đường tới một ngôi sao

Hưng đã thử đi theo con đường “chính thống”của hầu hết các ca sĩ mới vào nghề, đó là tham gia các cuộc thi ca hátvới hy vọng tìm kiếm giải thưởng – tấm “card visit” để thăng tiến, songkhông thành công. Ngay cả khi về đầu quân cho Trung tâm Ca nhạc nhẹ TP.HCM lúc bấy giờ, Trung tâm này được xem là một trong những bàn đạp quantrọng của các ca sĩ trẻ săn lùng các giải thưởng quốc tế làm bệ phóngcho sự nghiệp ca hát, thì sự nghiệp của Hưng cũng không đi đến đâu.Những đồng nghiệp “đàn em” tại Trung tâm Ca nhạc nhẹ Thành phố khi đó(xét về tuổi tác, Hưng hơn họ cả chục tuổi), lần lượt Hồng Ngọc, Mỹ Tâm,Vân Quỳnh đều kịp gặt hái những giải thưởng từ các cuộc thi liên hoan canhạc trong khu vực. Năm 1999, Hồng Ngọc đọat giải nhì ca sĩ mới xuất sắcnhất châu Á trong liên hoan tổ chức tại Thượng Hải – Trung Quốc. Một nămsau, Mỹ Tâm vượt lên đoạt  Huy chương đồng (giải chính thức) cũng tạiliên hoan nói trên. Và cùng năm này, Vân Quỳnh đoạt giải Tài năng trẻgiọng hát châu Á tại Kazakhstan. Những cơ hội “chính thống” ấy không hềđến với ĐVH, khi đó đã ở tuổi 30. Không biết có phải vì vậy mà Hưng cócơ hội đến với thành công bằng con đường “không chính thống”, đôi khicòn đối nghịch.

Điểm lại những “cột mốc” trên conđường trở thành một ngôi sao của ĐVH, có thể thấy hầu hết đều lạc ra khỏi conđường chính thống.

Cột mốc đầu tiên, “Tình ơi xinngủ yên” – album đầu tay và cũng là album tạo nên “hiện tượng Đàm Vĩnh Hưng“ đãphải đi đường vòng trước khi về Việt Nam: do một trung tâm ca nhạc hải ngoạiphát hiện, sản xuất và phát hành, tới mức khi cái tên ĐVH bắt đầu được nhắc tớitrên thị trường, nhiều người tưởng Hưng là… ca sĩ hải ngoại. Năm 2001, album nàybán như tôm tươi ở các xó xỉnh, từ xe kẹo kéo đến xe bus, từ cà phê vỉa hè đếnvũ trường, được ví với “cơn lốc trên thị trường băng đĩa”. Hưng lên từ đây,nhưng cũng vướng vào vô khối chuyện.

Đàm Vĩnh Hưng: Đường tới một ngôi sao

Lúc bấy giờ Làn Sóng Xanh đang ở thời kỳquyền lực nhất đối với thị trường ca nhạc trong nước, chỉ cần giảithưởng này “cộp” vào cái tên ca sĩ nào lúc đó là thời kỳ hoàng kim tớingay. Năm 2002, cái tên ĐVH xuất hiện trên “bảng phong thần” nhưng ngaysau đó, người ta phát hiện rằng những ca khúc lọt vào bảng xếp hạng củaHưng đều “vướng” về tác giả. “Tình ơi xin ngủ yên” và “Bình minh hãymang em đi”, hai bản “hit” của Hưng lúc đó “out” khỏi bảng xếp hạng vìlà ca khúc nhạc ngoại, trong khi Nhật Trung, tác giả ca khúc “Góc phốrêu xanh”, một bản “hit” khác trong album “Tình ơi xin ngủ yên”, lại lậplờ giữa tác giả trong nước và tác giả hải ngoại. Vào thời điểm đó,chuyện này bị xem là “phạm qui”, nhưng may mắn được bỏ qua vì sự lơ đãngcủa Ban biên tập Làn Sóng xanh. Sau đó, Hưng “dính” liên tiếp các “vụán” ca khúc của tác giả hải ngoại, từ “Nếu có yêu tôi” đến “Phố đêm”.Nếu ai đó không nhớ, thì xin được tóm tắt thế này: Cả hai “vụ” nói trêncùng có chung một “kịch bản”: “Nếu có yêu tôi” (nhạc Trần Duy Đức, phổthơ Ngô Tịnh Yên) và Phố đêm (tác giả Tâm Anh) được phổ biến tại hảingoại và miền Nam trước 1975 và chưa được cấp phép lưu hành tại ViệtNam, song lại được ĐVH sử dụng trong các album của mình sau khi đã đổitên tác giả. Vụ việc chỉ được phát hiện chính các tác giả thực và cả tácgiả hờ lên tiếng. Hưng may mắn thoát ra khỏi những vụ rắc rối này, thậmchí ngay lúc đó anh còn được trao giải thưởng “Gương mặt trong năm” LànSóng Xanh – giải thưởng dành cho những ca sĩ “vẹn toàn”.

Đơn giản, vì thời của Hưng đãđến.

Đàm Vĩnh Hưng: Đường tới một ngôi sao

Và hợp thời

Tôi thích làm những điềungười khác không dám làm, ít làm”. Điều này nói lên một phần tính cách “nổiloạn” của ĐVH, cả trong âm nhạc đến lối sống. Với Hưng mọi thứ được xem là chuẩnmực đều… vứt! Đến cả hàng hiệu vài trăm với vài ngàn đô mua về anh còn sẵn sàngcắt bỏ và tự chế ra thứ thời trang của mình, thì sá gì mấy câu nhạc, Hưng có thể“chế” vài nốt, vài tông theo ý thích, sá gì chuyện Hưng có thể đứng hát, ngồihát và cả… nằm hát!

Trong nghệ thuật, đặc biệt là trong nghệ thuật biểudiễn, sự nổi loạn luôn gây ấn tượng và rất được chú ý. Sự “nổi loạn” đã tạo nênmột giọng hát Thanh Lam đầy cá tính của nhạc nhẹ Việt Nam những năm đầu thậpniên 1990. Cũng sự “nổi loạn” đã tạo nên một Phương Thanh “phủ sóng” thị trườngca nhạc đầu những năm 2000. Tuy mang danh là phái mạnh, nhưng xem ra các ca sĩ ởViệt Nam hiện nay ít nhu cầu và khả năng “nổi loạn” hơn cả và ĐVH ở số rất ítấy. Thời “nổi loạn mở đường” của Thanh Lam đã qua. Giờ này, với đám đông, sự“nổi loạn” của Thanh Lam quá “nặng” và thiên về những tìm tòi mới trong âm nhạc,trong kỹ thuật thể hiện nên đa số trong họ không thể  “theo” được. Còn PhươngThanh, lại quá chân chất, nói thẳng ra, là bình dân. Thời ấy cũng qua rồi. Khimà người ta bỏ dần những quán cà phê thường thường bậc trung để leo lênHighlands hay Paris Deli, thì cái “gu nổi loạn” cũng phải nâng cấp. Sự “nổiloạn” của ĐVH nằm ở khoảng giữa. Anh chọn thứ âm nhạc dễ nghe, bình dân, thậmchí là “sến” nhưng khoác lên chúng Louis Vuitton, Gucci, D&G cùng các công nghệshowbiz hiện đại và… “nổi loạn”. Nhạc của Hưng vì thế được mệnh danh là “sang”,nhưng lại vẫn “phổ thông”. Thời nay, chẳng có gì hợp thời hơn thế!

Đàm Vĩnh Hưng: Đường tới một ngôi sao
 
Và Hưng không mệt mỏi trên con đường thu phụccông chúng. Hiếm có ca sĩ nào ở Việt Nam có cường độ làm việc chóng mặt nhưHưng. Trong khi hầu hết các ngôi sao sau mỗi dự án âm nhạc đều phải nghỉngơi một vài năm để nạp năng lượng mới, sung sức và trẻ trung như Mỹ Tâm, HồNgọc Hà cũng không thể non – stop, thì Hưng chưa lúc nào cho phép mình dừnglại. Năm nào cũng ra album, thậm chí vài album. Kinh hơn, hai năm trở lạiđấy, khi các ngôi sao quỵ ngã với liveshow vì không thu hồi nổi vốn, thìHưng vẫn với phương châm “thích làm những gì người khác không dám làm”,không tiếc tiền và công sức làm liveshow. Liveshow ĐVH “phủ sóng” từ Nam tớiBắc, cái nào cũng thuộc dạng “chưa từng có”: khi thì “toàn trắng” (ca sĩ,khán giả đều phải diện đồ trắng), sắp tới thì “năm không” (không ghế ngồi,không máy lạnh, không nhạc chậm, không dừng lại và không dành cho người yếutim). Trong "cuộc chơi” này, Hưng biết mình cũng không được phép dừng lại.
 
Để nuôi giấc mơ “trở thành một huyền thoại củaâm nhạc Việt Nam” bằng những kỷ lục ấy, Hưng sẽ còn phải non-stop trên conđường kiếm tìm kỷ lục cho tới khi anh… kiệt sức. 

Theo Đàm Vĩnh Hưng: Đường tới một ngôi sao