Bối cảnh khó khăn của kinh tế vàcác thị trường tài chính không hẳn đã làm tắt ngấm hy vọng của doanh nghiệp, nhàđầu tư. Trong đó, vẫn còn có “cơ hội sau những cuộc sàng lọc”.

Hơn nửa năm 2011 đã đi qua vớimức lạm phát lên tới 22,16% trong tháng 7 (so với cùng kỳ tháng 7 năm ngoái).Thị trường bất động sản và chứng khoán giảm là hệ quả của chính sách thắt chặttiền tệ và hạ dư nợ cho vay phi sản xuất xuống 22% hồi cuối tháng 6. Nhiều doanhnghiệp gặp khó khăn kép, vừa không vay được vốn ngân hàng do mặt bằng lãi suấtcho vay cao, phải lo trả nợ các khoản vay đáo hạn, lại vừa bị tồn kho lượng hànghóa lớn.

Tuy nhiên, chính khó khăn lại là cơ hội để mỗi doanh nghiệp, mỗi ngânhàng tự chữa tận gốc căn bệnh “ăn xổi ở thì”.

Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Việntrưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, không cần quá nhiều thời gianđể thu hút sự chú ý đặc biệt của cử tọa gồm hơn 500 tổng giám đốc, nhà quản lýdoanh nghiệp, chuyên gia kinh tế và quan chức nhà nước tại khán phòng lớn củaKhách sạn Sheraton Sài Gòn.

Ngay lập tức ông đã làm cho đại biểu tham dự Hộinghị Đầu tư 2011 do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức ngày 28.7 vừa qua với chủ đề “Đầu tư2011-2012: Cơ hội cho ai?” phải ồ lên tán thưởng với nhận định trong 4 năm qua,Việt Nam đã 4 lần thay đổi mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Cuộc sàng lọc đối với doanhnghiệp

Ông Thành khái quát rõ nét 4 mụctiêu mà Chính phủ theo đuổi trong 4 năm trở lại đây. Nếu như năm 2007 là kíchthích tăng trưởng dựa trên đầu tư công và tăng trưởng tín dụng thì đến năm 2008là ổn định kinh tế vĩ mô, đến năm 2009 là tung các gói kích thích kinh tế và đếnnăm 2010 lại thể hiện sự thiếu nhất quán trong cách điều hành chính sách ổn địnhkinh tế vĩ mô.

Nhưng cho dù chính sách nào thìnền kinh tế đều phải đối mặt với vấn đề đau đầu nhất: lạm phát. Không khó đểnhìn ra khó khăn nội tại của nền kinh tế từ hệ quả của những vấn đề ông Thành đềcập. Chính việc nới lỏng tăng trưởng tín dụng năm 2007 với mức tăng trưởng rấtcao trong hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các lĩnh vực bất động sản vàchứng khoán đã dẫn tới tình trạng bùng nổ quá nóng của 2 thị trường này.

Theo ông Nguyễn Đức Vinh, TổngGiám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), một diễngiả khác trong Hội nghị Đầu tư, có hơn 90% doanh nghiệp dính dáng đến lĩnh vựcđịa ốc trực tiếp hoặc gián tiếp.

Vì thế, khi nguồn tín dụng ngânhàng bị siết chặt trong nửa đầu năm nay, ngay lập tức nhiều doanh nghiệp địa ốcvà chứng khoán vốn đã mất cân đối trong cơ cấu vốn, hoạt động dàn trải, quản trịrủi ro kém, tính thanh khoản yếu... nay hầu như chỉ hoạt động cầm chừng.

Năm 2009 khi các gói kích thíchquy mô lớn được duy trì quá lâu nhằm thúc đẩy tăng trưởng đã làm tăng lượng tiềnrất lớn lưu thông trong nền kinh tế. Lạm phát tăng cao đã tác động tiêu cực đếncác doanh nghiệp.

Hiện nay, ông Thành cho biết, lạmphát theo tháng của Việt Nam đã giảm xuống mặc dù vẫn ở mức cao nếu tính theonăm. Dự báo của chuyên gia kinh tế này là mức đỉnh sẽ là 22%, sau đó đi ngang vàgiảm dần vào cuối năm.

Trong khi đó, ở góc độ lãnh đạongân hàng, ông Vinh cho biết Techcombank có quan hệ với khoảng 50.000 doanhnghiệp nhưng trong đó chỉ từ 10-15% doanh nghiệp giao dịch một cách thường xuyênvới Ngân hàng.

Ông Vinh nhận xét: “Lãi suất không phải vấn đề lớn nhất đối vớidoanh nghiệp, mà chỉ là một trong các yếu tố ảnh hưởng. Hầu hết các doanh nghiệpđều có cơ cấu vốn rất mong manh. Các doanh nghiệp tư nhân thường có vốn chủ sởhữu trên tổng vốn hoạt động ở mức 15-20%, trong khi ở các đơn vị nhà nước, mứcnày chỉ 10%”.

Một thống kê của Techcombank đượcông Vinh trích dẫn cho thấy, có trên 60% doanh nghiệp mất cân đối về vốn, vì họđã đem quá nhiều vốn ngắn hạn đi đầu tư trung và dài hạn, và đa số đều đầu tư đangành.

Ngoài ra, ông Vinh cho rằng hàng tồn kho cũng gây rất nhiều khó khăn chohoạt động doanh nghiệp. Vì thế, không phải cứ hạ lãi suất là làm cho doanhnghiệp mạnh lên. Điều thiết yếu là trong hoàn cảnh khó khăn chung hiện nay,doanh nghiệp phải tiến hành tái cơ cấu nguồn vốn và xây dựng chiến lược kinhdoanh dài hạn.

Đầu tư 2011-2012: Cơ hội cho ai?
Giáo sư Regina Abrami, Giảng viên Cao cấp Trường Kinh doanh Harvard (Mỹ) (Ảnh: vietabroader.org)

Liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩLê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cho biết hàngtrăm doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đang có lượng hàng tồn kho rất cao. Theokhảo sát mới đây của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, hiện có 130 doanhnghiệp niêm yết có bảng cân đối tài sản rất xấu.

Trong lúc doanh nghiệp gặp khó dolạm phát và cơ cấu vốn thì các ngân hàng thương mại, được xem là một loại hìnhdoanh nghiệp đặc biệt, cũng yếu đi. Theo ông Nghĩa, trong 6 tháng đầu năm nay,tăng trưởng cung tiền đạt trên 3%, tương đương với 78.000 tỉ đồng.

Tuy nhiên, phân nửa số này chảyvào trái phiếu chính phủ vì phần lớn người mua là các ngân hàng thương mại.Chính vì thế, tiền đồng trở nên khan hiếm hơn. Lãi suất liên ngân hàng đã giảmtừ 22% xuống 12% và đang ổn định. Lãi suất trái phiếu chính phủ giảm từ 14%xuống 12%. Hai loại lãi suất này, theo quan sát của ông Nghĩa, nếu ổn định trong3 tháng thì lãi suất huy động và cho vay trên thị trường cũng sẽ giảm. Ông nóithêm: “Lãi suất đang có xu hướng giảm nhẹ do quan hệ cung cầu thị trường”.

Ông Vinh thì tin rằng lạm phát cảnăm 2011 có thể ở mức trên 17% và sẽ còn cao. Và theo ông, sức khỏe của nhiềungân hàng đang giảm sút. Nguyên nhân là khi ngân hàng áp dụng mức lãi suất chovay cao, doanh nghiệp không thể tiếp cận được vốn, còn nếu ngân hàng giảm lãisuất huy động để hạ lãi suất cho vay thì chính ngân hàng cũng bị rủi ro thanhkhoản vì nguồn vốn huy động sẽ sụt giảm.

Một dẫn chứng cho việc khu vựcngân hàng yếu đi là số liệu do ông Nghĩa công bố tại Hội nghị Đầu tư. Theo đó,tổng nợ xấu tính đến cuối tháng 6 là 75.000 tỉ đồng và mức nợ xấu tăng 50% sovới cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt, nợ nhóm 5 (nợ mất vốn) chiếm tới 47% tổng cơcấu nợ của các ngân hàng. Tỉ lệ nợ xấu bất động sản hiện chiếm 4%.

“Nếu việc thắt chặt tiền tệ vẫncòn tiếp tục như hiện nay, nền kinh tế Việt Nam có thể rơi vào tình trạng lạmphát và đình đốn sản xuất, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý III vàIV sẽ dưới 5% chứ không phải 6-6,5% như Chính phủ dự kiến”, ông Nghĩa nhận định.

Ông Thành đề xuất cần kiên trìvới chính sách thắt chặt tiền tệ, duy trì mức lãi suất cao để chống lạm phát.Thực tế là trong vài năm trở lại đây, sự nửa vời trong điều hành chính sách tiềntệ theo kiểu 6 tháng đầu năm, thắt chặt rồi lại nới lỏng trong 6 tháng cuối nămđã khiến cho lạm phát quay trở lại ngay ở đầu năm sau.

Ông Thành kết luận: “Chỉ có ổnđịnh kinh tế vĩ mô mới có thể khôi phục lòng tin của doanh nghiệp, quỹ đầu tư vàngười dân”.

Thị trường chứng khoán khógượng dậy

Vấn đề khó khăn và lòng tin khôngchỉ được nhắc ở khía cạnh kinh tế vĩ mô, ngân hàng mà cả trong khu vực chứngkhoán.

Giá trị giao dịch trung bình toànthị trường trong 2 quý đầu năm 2011 chưa tới 1.000 tỉ đồng, thấp hơn mức trungbình 2.100 tỉ đồng của năm 2010 và 2.500 tỉ đồng năm 2009. Làm sao để lấy lạiniềm tin cho thị trường và thị trường hiện tại tạo ra cơ hội gì là những vấn đềmà ông Trịnh Hoài Giang, Phó Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán TP.HCM (HSC),chia sẻ với nhà đầu tư tại Hội Nghị.

Thị trường chứng khoán Việt Nam,theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, hiện có khoảng 1,1 triệu tàikhoản, trong đó 80-90% là tài khoản của nhà đầu tư cá nhân. Tuy nhiên, theo quansát của ông Giang, chỉ có khoảng 5% số tài khoản giao dịch thường xuyên.

Niềm tin cũng như mức độ quan tâmđến thị trường của các nhà đầu tư cá nhân cũng đang giảm dần, chỉ bằng 50% sovới mức bình quân năm 2010, thể hiện qua số lệnh đặt chưa tới 100.000 lệnh mỗingày. Ngay cả các nhà đầu tư cá nhân lớn cũng giao dịch ít đi vì công ty chứngkhoán ngày càng thận trọng hơn trong việc cung cấp đòn bẩy cho khách hàng. Thêmvào đó, sự mạnh tay của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với các vụ thao túng giácổ phiếu gần đây cũng khiến nhóm này chùng tay.

Chứng khoán Việt Nam được đánhgiá là khá rẻ trong nhóm các nước mới nổi. Chỉ số P/E (giá/thu nhập mỗi cổphiếu) của toàn thị trường hiện tại là 8,5 lần, gần bằng một nửa so vớiPhilippines.

“Ngoài tiêu chí giá rẻ, chỉ số này cũng cho thấy mức độ rủi ro củachứng khoán Việt Nam cao gấp 2 lần Philippines”, ông Giang nhận xét. Mặc dù cólợi thế giá rẻ và lực cầu nội địa rất mạnh nhưng chứng khoán Việt Nam, theo ông,vẫn còn vướng nhiều rào cản nên chưa hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó, longại về sự minh bạch thông tin và sự chính xác trong hệ thống kế toán kiểm toáncũng đang làm nhiều nhà đầu tư mất lòng tin.

Dự báo về những tác động củachính sách kinh tế đến thị trường chứng khoán, ông Giang cho rằng, từ nay đếncuối năm sẽ không có nhiều thay đổi. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thấphơn trong 2 quý còn lại của năm 2011. Nguyên nhân chính là đồng USD yếu đi, gópphần làm gia tăng chi phí đầu vào.

Bên cạnh đó, đến cuối năm, cácchỉ số VN-Index và HNX-Index có khả năng sẽ giảm thêm 10% do nhà đầu tư ít quantâm hơn đến thị trường. Lượng vốn mới huy động được qua thị trường trong nửa đầunăm 2011 là 300 triệu USD.

Tuy nhiên, con số này sẽ giảm mạnh trong nửa năm cònlại. Dòng vốn mới của nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ không nhiều, trừ các khoảnđầu tư chiến lược trong những đợt phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO)của các doanh nghiệp nhà nước sắp tới. Vì vậy, khó có thể hy vọng thị trường sẽhồi phục trong ngắn hạn.

Muốn vực dậy thị trường chứngkhoán, theo ông Giang, điểm mấu chốt là phải tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tưnước ngoài. Để làm được điều này, trước hết cần phải lấy lại niềm tin của nhàđầu tư trong nước và nước ngoài. Và mục tiêu ổn định vĩ mô phải là tiêu chí hàngđầu đặt ra trong quá trình lấy lại niềm tin đó. Cụ thể, lạm phát phải được hạxuống dưới mức 8%/năm và mức tín nhiệm quốc tế phải được nâng lên ít nhất là BB(Việt Nam đang ở mức BB-) với triển vọng ổn định hoặc tích cực.

Nhưng ông Giang vẫn lạc quan chorằng, về phía doanh nghiệp, thị trường khó khăn cũng tạo cơ hội để mỗi doanhnghiệp cơ cấu lại nguồn vốn và tập trung vào các hoạt động cốt lõi hơn nữa. Mặtkhác, trong những năm thị trường suy giảm, nhà đầu tư từng chứng kiến nhiều vụâm thầm thâu tóm doanh nghiệp. Đây cũng là cơ hội thanh lọc thị trường, đồngthời qua đó tạo ra những doanh nghiệp mới mạnh mẽ hơn. Ông Giang nói: “Khôngphải bây giờ thị trường mới nổi sóng mua bán - sáp nhập (M&A).

Tuy nhiên, M&A trong giai đoạnnày với các doanh nghiệp có thị giá dưới mệnh giá mới thật sự mạnh mẽ. Về mặttích cực, đây cũng là cơ hội giúp doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu lô lớngiá cao trong khi thanh khoản thị trường còn ảm đạm”.

Những dấu hiệu lạc quan hơn cũngđã xuất hiện từ dòng vốn đầu tư dài hạn từ các định chế tài chính lớn trong vàngoài nước. Đơn cử là Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), thuộc Ngân hàng Thế giới.

Ông Simon Andrews, Trưởng đại diện IFC, tỏ ra rất lạc quan về triển vọng đầu tưdài hạn tại Việt Nam. Trong khoảng 2 năm qua, IFC đã đầu tư hàng tỉ USD vào đây,góp phần không nhỏ trong việc phát triển khối doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn,IFC đã quyết định đầu tư vào Masan, một công ty lớn trong ngành thực phẩm và đầutư 12 triệu USD vào Công ty Thiên Minh, hỗ trợ mua lại chuỗi khách sạn Victoria.

Trong giai đoạn khó khăn hiệnnay, ông Andrews cho biết, IFC đang rất quan tâm đến cơ sở hạ tầng tại ViệtNam. “Trong 10 năm tới, quỹ sẽ đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng và phân nửatrong số đó sẽ phải đến từ khu vực tư nhân”, ông nói. IFC là một trong nhữngnhà đầu tư đầu tiên vào Việt Nam trong lĩnh vực bệnh viện tư nhân và ngânhàng (đầu tư vào ACB và Sacombank).

Bài học từ Trung Quốc

Trong lúc các chuyên gia ngườiViệt nhận định khác nhau về kinh tế vĩ mô, ngân hàng, chứng khoán và huy độngvốn thì Tiến sĩ Regina Abrami thuộc Trường Kinh doanh Harvard (HBS) đã có nhữngso sánh thú vị về kinh tế Việt Nam và Trung Quốc cũng như bài học rút ra từ đó.

Việt Nam và Trung Quốc đều cónhiều điểm tương đồng trong chính sách ổn định kinh tế vĩ mô thời gian qua. Theothống kê của Ngân hàng Thế giới, tháng 4.2011, lạm phát của Trung Quốc là 5,3%.Góp phần vào chỉ số lạm phát này là giá một số mặt hàng đã tăng đột biến nhưbông sợi, lúa mì, đường, đồng và muối.

Theo bà Abrami, tình trạng lạmphát ở Trung Quốc trong 4 tháng đầu năm nay đã gây ra 3 tác động chính lên cácdoanh nghiệp nước này gồm gia tăng sự bất ổn của chuỗi cung ứng toàn cầu, đẩy áplực tăng giá lên cao và tăng chi phí vay nợ.

Trong khi đó, lãi suất ngân hàngđã làm cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ thêm khó khăn trong việc huy động vốn,thậm chí khiến không ít doanh nghiệp phải phá sản. Hệ quả xã hội của tình trạngtăng giá là các cuộc đình công diễn ra liên tiếp ở Trung Quốc trong năm 2010 vànửa đầu năm nay, với cao điểm là vụ tự tử của công nhân ở hãng gia công hàngđiện tử Foxconn.

Vì vậy, nhằm mục tiêu ổn địnhkinh tế vĩ mô và an sinh xã hội, từ năm 2010-2011, Chính phủ Trung Quốc đã lầnlượt thực thi một số chính sách như tăng khoảng 30% đối với mức lương tối thiểuở 30 tỉnh thành (khoảng 178 USD/tháng). Tiếp đến là tăng giá xăng dầu (tăngkhoảng 5%) và giá dầu diesel (5%), mở kho thực phẩm dự trữ, chống đầu cơ hànghóa và trợ giá lương thực cho người nghèo.

Song song đó, chính phủ nước nàycũng tăng lãi suất cho vay lên 6,56% và lãi suất tiền gửi lên 3,5%/năm từ tháng7, đồng thời nâng mức dự trữ ngoại hối lên 21%. Chính phủ Trung Quốc cũng nângnhẹ giá đồng nội tệ.

Theo bà Abrami, 3 chiến lược cơbản có thể giúp các doanh nghiệp Trung Quốc tồn tại trong cơn bão lạm phát hiệnnay là tăng cường đầu tư vào công nghệ, dịch chuyển nhà xưởng và đẩy mạnh sángtạo thương hiệu.

Theo đó, các doanh nghiệp phảiđầu tư nâng cấp công nghệ và đẩy mạnh tự động hóa nhằm hướng tới mục tiêu giảmtối đa chi phí sản xuất. Kế hoạch dịch chuyển nhà xưởng cũng cần được cân nhắctheo 2 hướng, hoặc tiến sâu vào nội địa đến các tỉnh phía Tây như Tứ Xuyên,Trùng Khánh, hoặc thực thi chiến lược “Trung Quốc + 1” với các thị trường lánggiềng, nhất là Việt Nam, vốn vẫn còn lợi thế cạnh tranh về nhân công giá rẻ.

Sau cùng, sáng tạo thương hiệu cóliên quan đến yếu tố nhận diện sản phẩm thông qua thiết kế lại mẫu mã bao bì vàgiảm kích cỡ sản phẩm để thu hút khách hàng, nhưng vẫn giữ nguyên giá bán.

Tham chiếu đến năng lực cạnhtranh của doanh nghiệp Việt Nam, theo bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên BanNghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, trong 3 chiến lược cạnh tranh của doanhnghiệp trong nước sau thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO) là giá cả sản phẩm, sự khác biệt và tập trung vào mục tiêu kinh doanhtrọng tâm thì hiện nay, hầu như các doanh nghiệp mới chỉ chú trọng vào yếu tốthứ nhất.

Do đó, doanh nghiệp trong nướcvẫn chú trọng đến khâu sản xuất và định giá bán sản phẩm mà chưa tập trung vàocác khâu tạo nên giá trị gia tăng như nghiên cứu và phát triển (R&D), xúc tiếnvà tiếp thị (P&M). Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển, đối với R&D, nếuđược phát huy tốt, có thể tạo ra tới 30-35% giá trị gia tăng cho hàng hóa vàdịch vụ và P&M cũng có thể tạo ra 20-25% giá trị gia tăng cho hàng hóa hoặc dịchvụ.

Số liệu so sánh mới nhất của Tổngcục Thống kê giữa số lượng doanh nghiệp còn hoạt động với số doanh nghiệp đăngký kinh doanh ban đầu cho thấy, sức sống của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cònkhá yếu. Theo đó, tỉ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 3 năm kể từ khi đăng kýkinh doanh chỉ đạt khoảng 75% và sau 5 năm là 54%.

Bên cạnh đó, việc năng lực cạnhtranh của doanh nghiệp Việt Nam bị Tạp chí Forbes xếp hạng 118/128 quốc gia vềmôi trường kinh doanh trong năm 2010 cũng phần nào cho thấy trình độ phát triểncủa các doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn so với mặt bằng chung của thếgiới.

Theo NCĐT