Điều chỉnh tỷ giá sẽ có tácđộng tích cực đến thị trường chứng khoán và là biện pháp cần thiết để ổn định vĩmô, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, TS. Vũ Viết Ngoạn, khẳng định khitrao đổi với chúng tôi.
Tuy nhiên, ông Ngoạn cũng cho rằng cần có các biện pháp đi kèm để hạn chếthấp nhất các tác động tiêu cực của sự điều chỉnh.
Tích cực nhiều hơn
Thưa ông, tỷ giá tăngmạnh cuối tuần qua có nằm trong dự liệu của Ủy ban Kinh tế hay không?
Chính sách tỷ giá là công cụ điều hành của Chính phủ để điều chỉnh nền kinh tế,nhưng mặt khác tỷ giá cũng là hệ quả của nhiều yếu tố cân đối của nền kinh tế.Trong đó quan trọng nhất là cân đối ngoại tệ của quốc gia và cán cân thanh toán.Trong điều kiện nhập siêu diễn ra liên tục nhiều năm qua, thì điều chỉnh tỷ giáchính là để góp phần điều chỉnh nhập siêu, điều chỉnh cán cân thương mại và quađó cải thiện cán cân thanh toán tích cực hơn.
Cũng cần nói rằng trong năm 2010 chỉ có hai lần điều chỉnh tỷ giá, trướcđó vào cuối năm 2009 cũng có một lần điều chỉnh vào tháng 11. Như vậy cũng khálâu tỷ giá mới được điều chỉnh.
Chỉ có một điểm khác là lần điều chỉnh này khá lớn (9,3%), trước đây chỉ daođộng quanh 2% đến 3%. Đây là mức điều chỉnh rất mạnh từ nhiều năm nay.
Bởi vậy cũng có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng nên tăng ít một, ítmột, theo phương pháp tỷ giá “trườn bò”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nhiềutháng nay thị trường đã kỳ vọng tỷ giá sẽ điều chỉnh. Thời gian qua trên thịtrường tự do tỷ giá có những lúc chênh lệch đến 10% so với tỷ giá chính thức.
Chính vì vậy, lần điều chỉnh này là để đưa tỷ giá chính thức sát với giá đượcxác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường. Với phân tích như vậy tôi chorằng mức điều chỉnh vừa rồi là hợp lý.
Tuy nhiên, phương pháp nào thì có hai mặt tích cực và tiêu cực. Quan trọng làlàm thế nào để phát huy mặt tích cực và có biện pháp đi kèm để giảm thiểu tácđộng không tích cực của nó.
Ý của ông là mặt tích cựcnhiều hơn?
Tích cực nhiều hơn. Bởi lẽ điều chỉnh tỷ giá sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu vàhạn chế nhập siêu, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên có một bộ phận người dân vàdoanh nghiệp thấy rằng điều chỉnh quá lớn, nên có phần hoang mang. Vì thế Nhànước vẫn cần có biện pháp kinh tế và tuyên truyền để hạn chế những ứng xử cóphần thái quá, gây bất lợi cho nền kinh tế.
Biện pháp đi kèm như thế nàothì thích hợp, thưa ông?
Quan trọng nhất là biện pháp kinh tế, trước tiên là quản lý thị trường, giá cảđể tránh tăng giá một cách bất hợp lý nhân điều chỉnh tỷ giá, nhưng quan trọngvẫn là đẩy mạnh tuyên truyền.
Theo sơ bộ đánh giá những ngày qua thì đa phần các nhà đầu tư, doanh nghiệp… làkhông ngạc nhiên lắm, bởi sự chênh lệch giữa tỷ giá thị trường và ngân hàng đãđến gần 10% rồi.
Cần làm rõ việc điều chỉnh tỷ giá nhằm mang lại lợi ích chung của quốc gia, ổnđịnh vĩ mô tốt thì kinh doanh tốt hơn trong dài hạn.
![]() |
Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, TS. Vũ Viết Ngoạn (Ảnh: VCB) |
Như ở trên ông có nói, đã tồntại sự chênh lệch quá lâu giữa tỷ giá chính thức và thị trường, vậy phải chăngvì “nín” lâu quá, nên nay “thả” có phần quá mạnh?
Phải nhìn nhận trong năm 2010, sức ép lạm phát hết sức là lớn, nhất là vào nhữngtháng cuối năm. Vẫn biết rằng mặt tích cực của tăng tỷ giá là khuyến khích xuấtkhẩu và hạn chế nhập siêu, qua đó điều chỉnh cán cân thương mại, cải thiện cáncân thanh toán. Nhưng mặt trái là hàng hóa nhập khẩu thì sẽ bị ảnh hưởng, giáthành tăng cao, gây sức ép lên lạm phát.
Trong khi đó, mục tiêu năm 2010 là tập trung cao cho ổn định vĩ mô, ưu tiên kiềmchế lạm phát. Hơn nửa năm tỷ giá không điều chỉnh mà CPI đã lên đến 11,75% rồi,nếu mà điều chỉnh thì chắc chắn con số này còn cao hơn.
Việc quá lâu không điều chỉnh tỷ giá cũng có tác động không tốt, nhưng đó là sựkhông thể khác được.
Nhưng sang năm 2011, Ủy banKinh tế vẫn nhấn mạnh ưu tiên ổn vĩ mô và Quốc hội đã quyết mức lạm phát khôngquá 7%. Vậy thì áp lực lạm phát vẫn đang rất lớn?
Kiềm chế lạm phát không có nghĩa là mãi mãi không tăng tỷ giá, mà chỉ có thểgiãn trong một thời gian nhất định, vì còn phụ thuộc vào khả năng chịu đựng củanền kinh tế nữa.
Năm 2011 mục tiêu vẫn là ổn định vĩ mô, nhưng vẫn phải hài hòa giữa hai yêu cầuđiều chỉnh tỷ giá và kiềm chế lạm phát.
Nhớ lại trước kỳ họp Quốc hội thứ tám (cuối năm 2010), khi xây dựng kế hoạch chonăm 2011 thì dự báo lạm phát năm qua chỉ khoảng 8% thôi, nên mới đặt chỉ tiêucho năm nay là 7%. Và nếu thực sự năm 2010 kiểm soát được như thế thì năm 2011có thể phấn đấu đạt được mục tiêu không quá khó khăn.
Nhưng thực tế, con số lạm phát lên đến 11,75% của năm qua đã làm cho khả năngkiềm chế lạm phát như chỉ tiêu Quốc hội đã thông qua của năm nay trở nên mongmanh.
Liệu khả năng kiềm chế lạmphát có càng thêm mong manh trước sự điều chỉnh tỷ giá như vừa qua không, thưaông?
Hiện nay mới là tháng 2 nên vẫn có thể có hy vọng. Năm 2011, giá hàng hóa trênthị trường quốc tế có thể không tăng cao như năm 2010. Nếu như biết rút kinhnghiệm từ những năm trước về điều hành giá cả, giữ được thị trường tài chính,tiền tệ ổn định hơn, đặc biệt là các giải pháp vĩ mô giảm tổng cầu của nền kinhtế, thì hy vọng sẽ đạt được mức lạm phát 7% như mong muốn, mặc dù không đơngiản.
Ở trên ông đã nói, chính sáchluôn có hai mặt. Tỷ giá tăng thì các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thuận, nhưng cácdoanh nghiệp nhập khẩu sẽ bị ảnh hưởng rất lớn?
Tất nhiên là khi chính sách đưa ra tất yếu là phải tính đến tác động tích cực vàtiêu cực. Từ đó tính toán phương án cho phù hợp.
Theo tôi, việc lựa chọn thời điểm, tính toán bước đi và đưa ra quyết định cuốicùng như thế là hợp lý, chấp nhận được.
Điều chỉnh để mang lại lòngtin
Thưa ông, mục tiêu hàng đầuđược ưu tiên trong năm nay là ổn định vĩ mô. Theo ông, nên nhìn nhận thế nàoviệc điều chỉnh mạnh tỷ giá khi đặt trong yêu cầu thực hiện mục tiêu đó?
Hiện có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng một bộ phận người dân sẽmất lòng tin vào giá trị của VND và vào sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Nhưng suynghĩ như vậy là nặng về cảm tính chứ các nhà chuyên môn thì nghĩ khác, theohướng tích cực hơn.
Họ sẽ nhìn vào thực tế là chính sách này sẽ tác động thế nào đến nền kinh tế.Như đã nói, việc điều chỉnh tỷ giá được thực hiện khi cán cân thanh toán thâmhụt, cần hạn chế nhập siêu và thị trường thì kỳ vọng quá lớn. Và điều chỉnh tỷgiá chính là để góp phần cân đối vĩ mô.
Điều chỉnh tỷ giá chính là để mang lại lòng tin cho nhà đầu tư trong và ngoàinước, họ hiểu rằng đó là việc làm đúng hướng, rằng chúng ta đang hướng tới mụctiêu hàng đầu là tiến tới cân bằng cán cân thương mại.
Như vậy đây là giải pháp cầnthiết để ổn định vĩ mô?
Chính xác là như vậy.
Cá nhân ông dự báo như thếnào về phản ứng của thị trường chứng khoán trước điều chỉnh tỷ giá?
Tôi cho rằng hiện nay thị trường chứng khoán có hai nhóm nhà đầu tư. Nhóm nhàđầu tư chuyên nghiệp là các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư trong và ngoàinước, họ có chuyên môn phân tích và không ngạc nhiên vì động thái này nằm trongdự báo của họ. Điều chỉnh tỷ giá có tác động tích cực đến kinh tế vĩ mô, đó làdấu hiệu tích cực nên họ sẽ có động thái ứng xử trên thị trường theo chiều hướngtích cực trong lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên các nhà đầu tư không chuyên nghiệp khi thấy bước điều chỉnh quá lớncũng có thể có thể ít nhiều hoang mang làm cho thị trường xao động đôi chút.Song nếu có thái độ đó chỉ là trong ngắn hạn còn sau đó sẽ bị dẫn dắt bởi cácnhà đầu tư chuyên nghiệp. Cho nên tôi cho rằng về lâu dài chính sách này có tácđộng tích cực hơn tiêu cực và tăng lòng tin với nhà đầu tư, đặc biệt là với cácnhà đầu tư nước ngoài.
Thưa ông, nhiều ý kiến chorằng lãi suất hiện đang quá cao, song tỷ giá tăng khiến cơ hội giảm lãi suấttrong ngắn hạn sẽ giảm đi?
Lãi suất cần có bài giải theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanhnghiệp. Tuy nhiên vẫn có nhiều quan điểm hết sức khác nhau giữa các nhà kinh tếvề vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất là không thể giảm lãi suất vì sức ép lạm phát, cần thắt chặtchính sách tiền tệ bằng cách áp dụng lãi suất cao.
Quan điểm thứ hai cho rằng lãi suất cao sẽ gây khó khăn cho cho các doanhnghiệp, ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Tôi thì theo quan điểm nhìn nhận dung hòa. Về lý thuyết tôi nhất trí là lạm phátcao cần thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ hơn chút nữa. Tuy nhiên trongđiều kiện hiện nay tôi vẫn ủng hộ quan điểm xem xét giảm dần lãi suất.
Việc chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất giảm bớt nghe chừng có vẻ mâuthuẫn, nhưng nếu đi sâu phân tích thì nó cũng có cái lý của nó. Hiện nay ngoàinguyên nhân do lạm phát cao phải đảm bảo lãi suất thực dương còn có yếu tố mangtính kỹ thuật làm cho lãi suất cao một cách không cần thiết.
Lịch sử mấy chục năm hoạt động của ngân hàng dường như chưa bao giờ có tìnhtrạng người dân và doanh nghiệp áp đặt lãi suất tiền gửi với ngân hàng, mặc cảvới ngân hàng, gây sức ép với ngân hàng như hiện nay. Bên cạnh tác động củachính sách thì bản thân các ngân hàng cũng cần cân nhắc về thái độ ứng xử và tôntrọng quy luật của thị trường.
Chúng ta biết số lượng ngân hàng hiện nay là rất lớn, cạnh tranh khá cao nhưnglại chưa hội tụ được theo hướng tích cực nên dẫn đến tình trạng như đã nói trênvà đẩy lãi suất lên cao không cần thiết. Nếu có sự phối hợp từ chính sách và từnhận thức cũng như biện pháp từ chính các ngân hàng thì vẫn có thể giảm lãi suấtở mức hợp lý hơn.
Tôi xin nói rõ thêm là cứ cho bây giờ mục tiêu kiềm chế 7% lạm phát là khó đi,song khả năng dưới 10% thì không phải là quá khó. Nhưng lãi suất tiền gửi đã đến14% thì quá xa thực tế.
Tại sao lại như vậy? Từng ngân hàng đều nói thanh khoản tốt, vốn khả dụng đảmbảo mà vẫn cứ đua nhau tăng lãi suất tiền gửi để đến mức phải áp dụng trần lãisuất. Thực tế này khiến người không có chuyên môn cũng phải đặt câu hỏi tại sao.
Có gì đó bất hợp lý trên thị trường tiền tệ? Phải chăng hiện nay dòng chảy tiềntệ đang chậm lại, đọng lại, ngân hàng nào cũng giữ tiền nhiều, sự tin tưởng củatừng ngân hàng vào thị trường giảm sút, vì thế mà lãi suất tăng lên chăng, phảiđặt ra những câu hỏi đó để có biện pháp giải quyết.
Tôi không đi sâu vào chi tiết nhưng rõ ràng phải xác định là có “bệnh” nào đó vềmặt kỹ thuật và phải xử lý bằng kỹ thuật, chứ không đơn thuần bằng chính sách vĩmô.
Thưa ông, việc tăng tỷ giáchắc hẳn cũng sẽ tác động không nhỏ đến khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Namvà nhất là của các doanh nghiệp?
Đương nhiên điều chỉnh tỷ giá thì nợ ngoại tệ khi tính ra VND đều bị tăng lên,đó là điều cần phải tính tới khi lựa chọn điều chỉnh tỷ giá. Bên cạnh đó cácdoanh nghiệp vay ngoại tệ vẫn chịu rủi ro hối đoái vì Việt Nam chưa áp dụng cáccông cụ phân tán rủi ro.
Ở nước ngoài thì tỷ giá thậm chí có tăng, giảm đến 30%/năm cũng không có vấn đềgì cho doanh nghiệp, vì đã áp dụng công cụ chống rủi ro rui hối đoái và tínhtoán hết các chi phí đưa vào giá thành rồi. Như vậy thì có thể phân tán rủi rocho toàn xã hội, như một hình thức bảo hiểm vậy.
Ở nước ta thì công cụ chống rủi ro hối đoái trên thị trường hối đoái chưa pháttriển nên cũng có hạn chế phần nào với các doanh nghiệp đồng thời gây khó khăncho các nhà hoạch định chính sách.
Vì thế thời gian tới đây tới đây thị trường tài chính cũng đặt ra yêu cầu phảiphát triển mạnh và sâu hơn nữa để có các công cụ chống rủi ro hối đoái.
Theo Nguyên Thảo
VnEconomy