Cho đến nay, đã ít nhất ba lần các NHTM đưa ra đồng thuận trần lãi suất huyđộng (tại các mức 11% , 12%/năm), và lần gần đây nhất, giữa tháng 12/2010,các NHTM đã lại đồng thuận trần lãi suất huy động 14%/năm. Người ta hi vọngrằng, việc hạ lãi suất đầu vào sẽ là cơ sở để ngân hàng giảm lãi suất đầura. Tuy nhiên, hầu như chưa bao giờ các ngân hàng đặt vấn đề đến việc đồngthuận về giảm lãi suất cho vay nền kinh tế.
Theo sách giáo khoa về ngân hàng, lãi suất cho vay ngân hàng (NHTM được hưởng)là phần giá trị mới được tạo ra từ khu vực sản xuất vật chất (DN). Mối quan hệgiữa ngân hàng và doanh nghiệp chỉ tồn tại lâu dài khi hai bên cùng phân chialợi nhuận hợp lý và thỏa đáng.
Ứng xử phải đẹp
Theo các nhà ngân hàng lập luận, ở VN hiện nay, để hoạt động tốt, các NHTM phảicó khoảng 3% chênh lệch lãi suất. Theo cách đó, giải thích tại sao thực tế hầuhết các NHTM đã áp dụng mức cho vay trên 17%/năm (chênh 3% so với trần huy động,14%/năm). Lướt qua các trang web của một vài ngân hàng ta thấy, hiện nay hầu hếtcác ngân hàng đều công bố lãi suất cho vay ngắn hạn khá cao và không thực sự rõràng, kèm theo “từ...% trở lên”, kiểu như :
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh: từ 16,00%/năm trở lên.
- Cho vay phục vụ đời sống: từ 17,50%/năm trở lên.
- Cho vay kinh doanh chứng khoán: từ 18,00%/năm trở lên.
- Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu và phục vụnông nghiệp nông thôn: từ 16,00%/năm đến 17,50%/năm.
Lãi suất cho vay VÀNG: Cho vay để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trangsức: từ 5,50%/năm trở lên.
Lãi suất cho vay USD: từ 6,50%/năm trở lên.
Riêng cho vay khách hàng cá nhân, hay cho vay tiêu dùng, lãi suất cho vay lêntới 23% /năm. Đặc biệt đối với khách hàng loại này, hiện có khá nhiều ngân hàngđưa ra cái lãi suất rất lạ, chưa từng có ở VN là “lãi suất add-on”.
Đó là lãisuất tính theo dư nợ ban đầu - giả sử khi khách hàng trả đã gần hết nợ rồi chỉcòn 1 đồng thì khách hàng vẫn phải trả lãi tính theo dư nợ ban đầu dù đó là vàitrăm triệu. Có một số khách hàng gọi đó là thứ “lãi suất cắt cổ” vì quả thực,nếu tính ra có khi lên tới 25%/năm, chỉ kém đôi chút so với lãi suất cầm đồ.
![]() |
Sau một thời gian giảm lãi suất huy động (đầu vào) thì NHTM cần tính đến đồng thuận giảm lãi suất cho vay (Ảnh: DĐDN) |
Đối với cho vay DN, thực tế các NHTM đang áp mức lãi suất phổ biến là17-18%/năm. Chưa kể các chi phí khác cho các khoản vay, gồm phí chính thức nhưhồ sơ bảo đảm tiền vay, công chứng, thủ tục giấy tờ... có khi có cả phí kiểmđịnh, thẩm định khác... làm cho chi phí vay cao hơn mức thực tế này.
Tham khảo không chính thức nhiều loại hình kinh tế, các DN sản xuất cho thấy,hầu như trong điều kiện hiện nay, đầu tư sản xuất mà vay ngân hàng với lãi suất17-18% là không chịu đựng nổi, vì khó lòng DN sản xuất lại có lãi trên 20% khichưa tính lãi ngân hàng.
Số liệu công bố của NHNN về tín dụng tháng 1/2011 là rất đáng quan tâm tình hìnhtăng trưởng tín dụng: dư nợ cho vay nền kinh tế tháng 1/2011 của hệ thống ngânhàng chỉ tăng 0,43% so với tháng trước. Trong đó, đầu tư bằng VND giảm 0,09%nhưng đầu tư bằng ngoại tệ tăng 2,37%. Số liệu này cho thấy, có thể do lãi suấtcao mà DN đang cầm chừng, thu hẹp đầu tư. Theo dõi số liệu tăng trưởng nhữngtháng tiếp theo sẽ cho chúng ta dự báo tốt hơn về ứng xử của DN với lãi suất caođã quá lâu.
Một số quan điểm cho rằng, sau một thời gian giảm lãi suất huy động (đầu vào)thì NHTM cần tính đến đồng thuận giảm lãi suất cho vay. Theo cách nhìn nhận này,rõ rằng về hình thức, vì người gửi tiền đã chấp nhận trần lãi suất huy động củaNHTM (từ 14%/năm trở xuống) thì theo nguyên tắc bình đẳng, ngân hàng cũng phảicó sự đáp lễ, ứng xử đẹp bằng thỏa thuận trần lãi suất cho vay (từng bước hạthấp, tương ứng).
Cơ sở kinh tế để giảm lãi suất cho vay
Về giảm lãi suất cho vay đối với các DN và nền kinh tế nói chung, Chính phủ đãcó Nghị quyết phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 1/2011 nhấn mạnh yêu cầu điềuhành giảm mặt bằng lãi suất, ổn định tỷ giá... nhằm đáp ứng vốn cho nền kinh tế.
Rõ ràng, đây là chủ trương đúng đắn và là yêu cầu thực tế đang đặt ra hiện nayđối với VN. Tuy nhiên, đến nay, người ta vẫn cố đi tìm cái lý cho sự giảm lãisuất đầu ra. Qua báo giới cho thấy, đến nay vẫn có một số quan điểm, lý giảikhác nhau về việc tại sao không giảm được lãi suất:
- Lạm phát và lãi suất, con gà hay quả trứng?
Đứng về phía ngân hàng cho thấy: từ cuối năm 2010, lạm phát (CPI) đột ngột tăngmạnh, cả năm là 11,75% (CPI theo tháng của 2 tháng cuối năm đột ngột tăng cao,cụ thể tháng 11/2010 CPI là 1,86%, tháng 12/2010 CPI là 1,98%) và đầu năm 2011,chỉ số CPI là 1,74%. Một số lập luận rằng, nếu lạm phát (CPI) xuống thấp thì mớigiảm được lãi suất đầu ra.
Lập luận này có lý vì nếu NHTM thực hiện lãi suấtthực dương thì lãi suất thực r= i + p (trong đó r là lãi suất thực, i là lãisuất danh nghĩa, p tỷ lệ lạm phát dự tính). Theo cách ứng xử này của ngân hàngthì để lãi suất thực phải dương thì lãi suất danh nghĩa (lãi suất mà các NHTMcho vay chẳng hạn) phải bù được mất giá do lạm phát.
Còn đứng về phía DN: Lập luận từ phía sản xuất cho rằng, lãi cho vay- đầu racủa ngân hàng lại là giá vốn đầu vào (của lãi suất đi vay) của DN. Như vậy, nếugiá vốn đầu vào tăng thì sẽ làm giá thành sản phẩm tăng, điều này lại làm tăngmặt bằng giá cả. Theo kinh tế học, đó là lạm phát do chi phí đẩy. Theo lập luậnnày, ngân hàng rõ ràng cần giảm lãi suất cho vay trước.
Như vậy, rõ ràng, hiện tại, ngân hàng và DN đã và đang luận đàm về câu chuyện“con gà- quả trứng” mà từ trước tới nay sự đàm luận ấy chưa bao giờ có hồi kết.
Ngân hàng có biết doanh nghiệp “rét”?
Một nhà kinh tế VN gần đây có ý rằng, NHTM là một loại hình DN đặc biệt nằm giữachăn và do đó không bao giờ bị rét. Hàm ý rằng, việc các NHTM VN thu lợi nhuậnnăm 2010 vừa qua là do vị thế hiển nhiên “nằm giữa chăn” mang lại.
|
Thực tế chothấy, năm 2010, trong khi nhiều DN sản xuất làm ăn thua lỗ, thì ngân hàng trongnước vẫn rất ấm với mức lợi nhuận rất khủng, lên tới hàng ngàn tỷ, chi lươngthưởng rất cao, lương của ban điều hành, hội đồng quản trị hàng trămtriệu/tháng... hay chi phí hoạt động rất lớn. Có ngân hàng còn rất tự hào vềhoạt động đầu cơ, cho vay phi sản xuất, không cho vay vào bất động sản mà đầu tưvào hàng ngàn vị trí đất đai đắc địa trong thời gian qua.
Nếu nhìn hình ảnh ngân hàng “nằm giữa chăn” và có lãi khủng lại trên quan điểmphân tích “ứng xử với giá” (lãi suất đầu vào đầu ra của NHTM, price behavior)cho thấy các NHTM đã “ngư ông đắc lợi”: thỏa thuận hiệp hội hạ lãi suất đầu vàomà vẫn giữ nguyên hoặc tăng lãi suất đầu ra (cho vay), theo cách đó ngân hàngđang “ăn hai mang” (đầu vào và đầu ra).
Với tình trạng như trên, rõ ràng, về mặt kinh tế vẫn còn rất nhiều “cửa” để giảmlãi suất, ngay cả khi lạm phát ở mức tương đối. Có thể cần có nhận thức toàndiện hơn về lợi ích xã hội để định hướng ngân hàng giảm lãi suất cho vay.
Rất cóthể ngân hàng giảm lãi suất cho vay sẽ tạo ra hiệu ứng xoáy về mở nút thắt đanglà ách tắc hiện nay. Khi đó diễn biến có thể theo hiệu ứng tích cực, mà khởiđộng lại là người ở giữa chăn như ngân hàng: lãi suất cho vay giảm dẫn đến chiphí sản xuất giảm, giá bán hàng hóa giảm, lạm phát giảm, lãi suất cho vaygiảm... và dẫn đến DN mở rộng sản xuất, làm ăn có lãi, trả được nợ, nợ quá hạngiảm...
Hiện tại, có nhiều quan điểm chung là các giải pháp giảm lãi suất cần tổngthể và toàn diện. Các giải pháp chủ yếu là Nhà nước có chính sách vĩ mô ổnđịnh đảm bảo lạm phát thấp, đảm bảo chi tiêu ngân sách phù hợp. DN sử dụngvốn hiệu quả và tiết kiệm chi phí; các ngân hàng cần đồng thuận giảm lãisuất cả hai đầu và trong đó cần giảm chí phí hoạt động.
ThS LêVăn Hinh
Theo DĐDN