Trong bối cảnh nguy cơ lạmphát cao đang ngày một rõ nét, thâm hụt thương mại chưa được cải thiện, câu hỏi:“Nên điều hành tỷ giá thế nào?” dường như chưa có lời giải.

Dư báo về “bão” tỷ giá đã đượccảnh báo, nhưng xem ra không ai có thể ngờ “bão” đã đến sớm và mạnh như nhữngngày vừa qua. Sau những tuyên bố, đôi khi là trái ngược, của Ủy ban Giám sát tàichính quốc gia và NHNN, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do vẫn “kiên định” ởmức trên 21.000 đồng/USD.

Kỳ vọng nhiều, áp lực lớn

Đi ngược với tình trạng mất giácủa đồng USD trên thị trường tiền tệ thế giới, tỷ giá VND/USD liên tục tăng. Xuhướng tăng của VND/USD đã hình thành và ngày càng rõ nét từ hai tháng nay. ViệcNHNN điều chỉnh tỷ giá tăng thêm 2% vào ngày 18/8 (lần trước là ngày 11/2/2010,NHNN đã quyết định tăng tỷ giá này thêm hơn 3%, lên mức 18.544 VND/USD) dườngnhư chỉ làm chậm lại đôi chút đà tăng của tỷ giá.

Nếu tính từ đợt điều chỉnh tăngtỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 3%, và thu hẹp biên độ tỷ giá từ ±5%xuống ±3% hồi cuối tháng 11/2009 thì đợt điều chỉnh tỷ giá vừa qua đã là lần thứ batrong vòng chưa đầy 12 tháng.

Trước những diễn biến phức tạpcủa thị trường ngoại hối, NHNN đã quyết định không điều chỉnh biên độ tỷ giá,cũng không nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Do đó, theo quy định, mức trầntỷ giá được phép giao dịch của các NHTM vẫn là 19.500 đồng/USD; và tiếp tục bịtỷ giá trên thị trường tự do bỏ xa đến 1.500 đồng/USD.

Đây thực sự là một “cú sốc” lớn.Vì dù hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính chính thức vẫn chi phối 90%thị trường ngoại tệ, nhưng chỉ với 10% - “tiếng nói” của thị trường tự do vẫn cótrọng lượng đáng kể.

NHNN đã tuyên bố sẽ bán ra ngoạitệ để giảm căng thẳng trên thị trường. Nhưng vấn đề đặt ra là, dự trữ ngoại tệcủa Việt Nam có đủ để can thiệp thị trường theo cách này? Với tình hình hiệnnay, nếu NHNN không có quyết sách phù hợp sẽ dẫn đến việc các ngân hàng, doanhnghiệp thay vì giao dịch chính thức sẽ tìm cách “lách luật”. Điều này vô hìnhtrung sẽ làm gia tăng giao dịch ngầm mà NHNN khó kiểm soát được.                                                                                     

Theo TS Nguyễn Đức Độ thuộc ViệnKinh tế Tài chính, Học viện Tài chính, những giai đoạn căng thẳng về tiền tệ gầnđây tuy có mức độ khác nhau nhưng đều có chung một cơ chế là nỗi lo sợ VND mấtgiá do lạm phát cao và thâm hụt thương mại dai dẳng.

Giữ lạm phát hay giữ ngoại tệ?
Giá USD niêm yết trong hệ thống ngân hàng trong những tuần vừa qua luôn thấp hơn tới hơn 1.000 đồng/USD so với thị trường tự do

Theo những con số được công bốcủa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến tháng 10/2010, kinh tế Việt Nam hiện đang hội đủcả hai yếu tố này. Vì những diễn biến này, người dân, doanh nghiệp đang gia tăngchuyển đổi tài sản từ VND sang USD và vàng. Điều này lý giải tại sao đồng USDlại lên giá ở thị trường Việt Nam trong khi giá trị của nó trên thị trường thếgiới đang xuống dốc.

Kỳ vọng VND mất giá sẽ khiến việchuy động vốn bằng VND của NHTM trở nên khó khăn hơn. Do đó, các NHTM phải tìmmọi cách để níu giữ khách hàng gửi VND là tất yếu.

Thực tế lãi suất huy động khônggiảm mà còn có nguy cơ tăng trong thời gian tới. Mặt khác, kỳ vọng VND mất giácòn khiến kỳ hạn tiền gửi bằng VND của người dân tiếp tục ngắn lại, tác độngđáng kể đến tăng trưởng tín dụng, nhất là tín dụng trung và dài hạn do các NHTMkhông được phép sử dụng quá 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.

Tỷ giá hối đoái - công cụkhông dễ sử dụng

Có ý kiến cho rằng, nếu phải đánh đổi giữ kiềm chế lạm phát và dự trữ ngoại tệ thì nên chọn giữ ngoại tệ

Tỷ giá hối đoái là công cụ, làđòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạtđộng sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạybén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiềntệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.

Về thực chất tỷ giá không phải làcông cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ tronglưu thông. Tuy nhiên, nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đangchuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.

Đối với Việt Nam - một nền kinhtế có tỷ lệ “đô la hóa” cao, rất nhạy cảm với chính sách tỷ giá của NHNN. Quantrọng hơn, lâu nay Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu.Nhưng những gì chúng ta thu về không tương xứng với sự “hy sinh” của chính sáchtỷ giá. Thâm hụt thương mại trong suốt thời gian dài không được cải thiện nhiều,trung bình vẫn khoảng 1 tỷ USD/tháng.

Tuy mức thâm hụt này hiện ở mứcdưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, vẫn nằm trong mục tiêu đề ra, nhưng với mộtnền kinh tế nhỏ như Việt Nam thì khoản thâm hụt lên tới hơn chục tỷ USD là quálớn, gây áp lực thường trực lên điều hành tỷ giá.

Chưa kể nhiều mặt hàng xuất khẩuchủ lực của Việt Nam như đồ gỗ, may mặc, giầy da… thì có đến 80% nguyên liệu đầuvào là hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tỷ giá để đảm bảo độ mất giánhất định của VND so với USD đã làm gánh nặng nợ nước ngoài tính bằng VND tăngvọt.

Đặc biệt, theo công bố của Chínhphủ trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 10 vừa qua, đến hết năm 2010 nợ chínhphủ sẽ tương đương khoảng 44,5% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDPvà nợ công bằng 56,7% GDP.

Phần bù đắp thâm hụt ngân sáchbằng vay nước ngoài ngày càng tăng, nên rủi ro tỷ giá hối đoái ngày càng lớn,nhất là tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam có xu hướng cao hơn so với quốc tế. Dự báo gầnđây nhất của các chuyên gia nước ngoài, lạm phát của Việt Nam năm nay sẽ vàokhoảng 9 - 9,5%.

TS Vũ Đình Ánh, Viện kinh tế -Tài chính cho rằng, để trả lời được câu hỏi nên điều hành tỷ giá hối đoái theohướng nào thì cần xác định lại vai trò hỗ trợ xuất khẩu của tỷ giá, vai trò củatỷ giá đối với các vấn đề trọng yếu khác như giá cả, lạm phát, sự lành mạnh củathị trường tài chính… trên cơ sở đó mới tính toán xem phá giá hay nâng giá VNDnhư thế nào cho hiệu quả.

Ông Trương Văn Phước, Tổng giámđốc Eximbank - người từng có nhiều năm làm chính sách về tỷ giá cho rằng, việccan thiệp thị trường lúc này phải có mục tiêu, đối tượng và đúng cách. Nếu cần,phải đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và giữ dự trữ ngoại tệ thì nên chọn ngoạitệ. Vì lạm phát dù có cao đến hai con số như năm 2007 (12,6%) vẫn “chưa có aichết cả”, nhưng nếu không đảm bảo dự trữ ngoại tệ trong bối cảnh kinh tế thếgiới còn nhiều bất ổn như hiện nay thì rất nguy hiểm, ông Phước khẳng định.

10 tháng đầu năm 2010, trong khi kim ngạch xuất khẩu đạt 57,8 tỷ USD thì kim ngạch nhập khẩu đạt 67,28 tỷ USD. Không những thế, sau một thời gian dài áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu thì so với cùng kỳ năm 2009, trong 10 tháng qua nhóm cần kiếm soát nhập khẩu tăng tới 38,5%, nhóm cần hạn chế nhập khẩu tăng 19%... CPI tháng 9 bất ngờ tăng đến 1,31% so với tháng trước, tháng 10 tăng tiếp 1,05% so với tháng 9, đưa CPI 10 tháng qua tăng 8,75% so với bình quân cùng kỳ năm 2009.

Theo Nhật Hạ
DĐDN