Sau khi có tin đồn về việcNgân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh giảm giá VND 4%, ngày 13/5, Ngân hàng Nhà nướcđã khẳng định đây là thông tin thất thiệt không có cơ sở, gây tâm lý hoang mangtrên thị trường.

Chúng tôi đã có cuộc trao đổi vớichuyên gia kinh tế độc lập Bùi Kiến Thành xung quanh chính sách tỷ giá, chínhsách lãi suất đối với khả năng thanh khoản của nền kinh tế vào thời điểm hiệnnay.

Đồng Euro và Bảng Anh đang giảm giá được hy vọng sẽ thúc đẩy xuất khẩu và hỗtrợ tăng trưởng kinh tế của các nước sử dụng những đồng tiền này. Ngân hàng Nhànước vừa khẳng định chưa có chủ trương điều chỉnh tỷ giá, ý kiến của ông vềquyết định này?

Nền kinh tế của các nước khác và Việt Nam hoàn toàn khác nhau, và những vấn đềgặp phải cũng là khác nhau. Trong khi Việt Nam là nền kinh tế dựa trên nhập khẩunguyên liệu nước ngoài quá nhiều, một nền kinh tế gia công thì các nước kháckhông lệ thuộc nhập khẩu. 

Do đó, các nước khác sử dụng biện pháp giảm giá đồng tiền, để đồng tiền rẻ hơn,hàng hóa sản xuất ra có tính cạnh tranh hơn khi xuất khẩu. Nhưng, đấy là lý luậncủa những nền kinh tế đã phát triển chứ không phải của Việt Nam.

Tại Việt Nam, những mặt hàng xuất khẩu chiến lược như may mặc, giày dép có hàmlượng nguyên liệu đầu vào từ 80% đến 90% là nhập khẩu. Do đó, khi hạ giá VND,giá hàng hóa nguyên liệu nhập khẩu sẽ cao. Với nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệcao trong giá thành sản xuất, khi đồng VND giảm, giá thành sản xuất hàng xuấtkhẩu sẽ tăng. 

Do đó, nếu chỉ có 10-20% nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu là nội địa, việc hạgiá VND sẽ làm hại nhiều hơn làm lợi cho chúng ta. Thêm vào đó, việc hạ giá VNDcũng không có lợi cho việc xuất khẩu gạo, cà phê, khoáng sản.

Đáng chú ý, việc hạ giá VND còn làm tăng giá hàng tiêu dùng nhập khẩu, vì vậy sẽđẩy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lên cao. 

“Hạ giá VND hại nhiều hơn lợi”

Theo ông Bùi Kiến Thành, với nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất, khi đồng VND giảm, giá thành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tăng (Ảnh: Reuters)

Có ý kiến cho rằng nên tăng lãi suất để giảmlạm phát, ông có bình luận gì? 

Hiện nay, Việt Nam không hề có lạm phát.

Lập luận lạm phát hiện nay là do hiểu lầm haikhái niệm lạm phát và tăng chỉ số giá tiêu dùng(CPI). Thực ra, lạm phát và chỉ số giá tiêu dùngtăng là không đồng nghĩa.

Lạm phát là lạm dụng quyền phát hành để đẩy ranền kinh tế  nhiều tiền quá, "chạy qua" một sốhàng hóa, và như vậy, làm cho nền kinh tế quánhiều phương tiện thanh toán mà không có đủ hànghóa mua.

Trong khi đó, tình trạng của nền kinh tế chúngta hiện nay là đang thiếu tiền. Các ngân hàngthương mại không có đủ tiền cho doanh nghiệp vay.

Chỉ số giá tiêu dùng tăng là do một số nguyênnhân khác. Thứ  nhất lãi suất cơ bản tăng từtrong tháng 11/2009, đẩy lãi suất của các ngânhàng thương mại tăng lên từ 10,5% lên 12%. Nhưngthực chất không phải ở mức 10,5% - 12%, các ngânhàng thương mại có nguồn vốn để bù lãi suất, vàlãi suất cho vay ưu đãi ở mức 6,5%. 

Khi Chính phủ quyết định chấm dứt chính sách hỗtrợ lãi suất, giá vốn đi vay của một số doanhnghiệp tăng vọt lên 12%. Thực tế còn cao hơn consố 12%, ở mức 14-15%, thậm chí 18-19%. Như vậy,chi phí vốn vay đã tăng gấp nhiều lần.

Lãi suất đầu vào tăng đẩy giá thành sản xuấttăng. Do đó, có thể nói, việc Ngân hàng Nhà nướctăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% đã đẩy giáthành tăng lên nhiều. Kết quả là, giá tiêu dùngtăng. Như vậy, quyết định tăng lãi suất để chốnglạm phát nhưng lại làm tăng chỉ số CPI.

Thứ hai, việc hạ giá đồng VND làm tăng giánguyên liệu đầu vào sản xuất và tăng giá hànghóa tiêu dùng trực tiếp. Kết quả là, chỉ số giátiêu dùng tăng. Thứ ba, việc tăng CPI cũng cómột phần do tính chu kỳ của việc tăng giá trongdịp tết. Thứ tư, giá cả các mặt hàng thiết yếunhư điện, than, nước, xăng dầu đều tăng cũngđóng góp vào sức tăng của CPI.

Như vậy, việc tăng CPI trong quý 1 vừa qua khôngphải do lượng cung tiền nhiều. 

Vậy theo ông, nên giảm tốc độ tăng giá tiêudùng theo cách nào?

Có người cho rằng, khi CPI tăng cần giải quyếtbằng cách tăng lãi suất, khống chế lượng tiềnvào nền kinh tế. Điều này không đúng với nềnkinh tế Việt Nam.

Ở các nền kinh tế khác, lưu lượng tín dụng tiêudùng chiếm 60-70%, người dân ở các nước khác muacái gì cũng vay tiền. Chỉ 30% lưu lượng tín dụnglà của sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Vì vậy,các nước khác áp dụng biện pháp tăng lãi suất để"khóa" tiêu dùng, giúp giảm giá hàng hóa, cầu ítđi vì ít tiền.

Vấn đề ở Việt Nam rất khác. Tín dụng tiêu dùng ởViệt Nam liệu có chiếm được 10%? Hơn 90% là tíndụng cho sản xuất và kinh doanh. Lãi suất tăngkhông tác động đến giá cả, mà lại làm tăng chiphí sản xuất, do đó phản tác dụng.

Hiện nay, các ngân hàng thương mại không huyđộng được vốn trong nhân dân, lãi suất đầu vàocao, do đó ngân hàng thương mại muốn cho vay cólãi phải tăng lãi suất cho vay. Thực tế, lãisuất cao thấp chỉ đóng một phần trong quyết địnhgửi tiền vào ngân hàng của người dân. Có thể cónhững kênh đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn,hoặc người dân giữ tiền dưới kênh khác để khỏimất giá bằng cách mua vàng, mua USD cất đi. Khingân hàng không huy động được vốn thì không cótiền cho vay. Cái gì hiếm thì đắt.

Vai trò của Ngân hàng Nhà nước là điều tiết lưulượng tiền tệ đủ để nền kinh tế phát triển ổnđịnh, bền vững, không dư để tạo ra lạm phát vàkhông thiếu để tạo ra thiểu phát. Vấn đề là phảibắt mạch được nền kinh tế đang thừa hay thiếutiền. Vấn đề này có thể giải quyết được. Mọiquốc gia đều đo lưu lượng tiền tệ qua các chỉ số,để biết được dùng bao nhiêu tiền là đủ.

Ngân hàng Nhà nước không cần phải vay của aicũng có thể cho vay lại được vì  Ngân hàng Nhànước có quyền phát hành giấy bạc, tín dụng,không phải trả lãi suất. Ngân hàng Nhà nước làngười cho vay cuối cùng. Nếu ngân hàng thươngmại không huy động được của người dân, Ngân hàngNhà nước phải tái cấp vốn cho ngân hàng thươngmại. Nếu không có tín dụng, cả nền kinh tế sẽđứng lại. 

Điều cần thiết hiện nay là phải có đủ tiền vớilãi suất hợp lý. Nếu chính phủ quyết định Ngânhàng Nhà nước phải mở van, cho ngân hàng thươngmại vay vốn cần thiết để có đủ thanh khoản, Ngânhàng Nhà nước có thể hạ lãi suất tái cấp vốn,điều này hoàn toàn nằm trong quyền lực của Ngânhàng Nhà nước.

Một điều đáng xem xét là Ngân hàng Nhà nước táicấp vốn cho các ngân hàng thương mại nhưng cũngcần tính đến việc giải ngân các nguồn vốn nàytheo những dự án có đóng góp cho tăng trưởngkinh tế, nên xem xét giải ngân dựa trên dự ánkhông phải dựa trên đối tượng.

Theo Lê Hường
“Hạ giá VND hại nhiều hơn lợi”