Trao đổi với chúng tôi, chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Đức Thúycho rằng đợt điều chỉnh tỉ giá bình quân liên ngân hàng tăng thêm 9,3% vừa quakhông ảnh hưởng nhiều đến mặt bằng giá cả, nhưng để hạn chế tiêu cực, Chính phủsẽ thực hiện nhiều giải pháp để bình ổn vĩ mô.

Ông Thúy nói:

- Theo tính toán của tôi, khi tỉ giá tăng 1%, giá cả sẽ tăng tương ứng từ 0,15%đến 0,2%. Với mức tăng 9,3%, giá cả sẽ tăng từ 1,4% đến gần 2%. Thời gian quachỉ một số ngành được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hỗ trợ ngoại tệ trực tiếp nhưxăng, dầu... mới được hưởng tỉ giá chính thức 19.500 đồng/USD, các ngành khácđều đã giao dịch và tính toán dựa trên tỉ giá tự do. Điều này có nghĩa là tỉ giáđã tác động đến giá cả lâu nay, đợt điều chỉnh này chỉ là thừa nhận mặt bằng tỉgiá đã có từ trước.

Về lâu dài, tỉ giá sẽ tác động thế nào đến giá cả hàng hóathì còn tùy thuộc vào những chính sách kinh tế liên quan như chính sách tiền tệgắn liền với việc điều hành lãi suất, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, tổngphương tiện thanh toán, chính sách thương mại, hàng rào kỹ thuật và cả mặt bằnggiá quốc tế.

Hậu điều chỉnh tỉ giá: Thực hiện ngay nhiều giải pháp bình ổn vĩ mô
Diễn biến giá USD trên thị trường tự do trong ngày 4-11 (Ảnh: Tuổi trẻ)

- Nhìn vào những diễn biến trên thị trường sau khi NHNN điều chỉnh tỉ giá, theoông, cần có những giải pháp gì để hạn chế tác động của tỉ giá đến giá cả?

- Dù là do yếu tố tâm lý hay nhân tố đầu cơ thì việc điều chỉnh tỉ giá vừa quaít nhiều tác động đến thị trường USD tự do. Nhìn lại thời gian dài vừa qua sẽthấy rất ít thời điểm giá USD tự do xuống thấp hơn giá chính thức, còn lại luôncó chênh lệch giữa giá chính thức và tự do. Theo tôi, giá USD tự do cao hơn 1-2%so với giá chính thức là bình thường, trường hợp chênh lệch lớn và kéo dài mớiphải xem xét. Do vậy, tỉ giá thị trường tự do hiện nay không phải là mức để đolường tác động của tỉ giá đến nền kinh tế.

Phải có nhiều giải pháp để hạn chế tác động của tỉ giá đến giá cả. Việc điềuchỉnh tỉ giá vừa qua của NHNN theo tôi là chưa đủ. NHNN phải xây dựng và thựchiện hàng loạt giải pháp về điều hành vĩ mô, lãi suất, cung ứng tiền cũng nhưgiải tỏa những ách tắc trên thị trường tiền tệ.

Tôi được biết Chính phủ sẽ họpvới các bộ ngành hữu quan để bàn tổng thể các phương án ổn định vĩ mô, giữ lạmphát ở mức hợp lý nhằm tạo nền tảng bền vững cho tăng trưởng, trong đó giaonhiệm vụ cụ thể cho từng bộ ngành. Chính phủ sẽ nghe và cho ý kiến để ra quyếtđịnh có tính hệ thống vì rõ ràng người dân đang kỳ vọng một cái gì đó đồng bộhơn. Điều đó là cấp thiết và theo tôi nên làm ngay.

- Nhiều doanh nghiệp vẫn phải mua USD với giá cao hơn giá niêm yết vì lý do NHthương mại không tiếp cận được nguồn USD từ NHNN?

- Báo cáo của NHNN cho thấy trạng thái ngoại tệ của các NH trước tết âm 2,5%,sau tết dương 2%, thậm chí có lúc 2,5%, nghĩa là các NH đã mua được ngoại tệtrong giai đoạn vừa rồi nhưng chưa muốn bán ngay, tâm lý chung là càng bán chậmcàng tốt. Người nắm giữ USD, doanh nghiệp xuất khẩu có ngoại tệ cũng chưa vộibán vì chưa tin tỉ giá sẽ ổn định lâu dài. Khi doanh nghiệp và người dân vẫn còntâm lý trên thì các NH vẫn theo nếp cũ, nghĩa là vẫn tạo những khó khăn nhấtđịnh khi bán ngoại tệ cho doanh nghiệp.

Để tạo sự thông thoáng trên thị trường ngoại tệ, theo tôi, phải có vai trò củaNHNN nhằm tạo sự ổn định ở mức mong muốn bằng cách bán USD can thiệp. Đừng đểthị trường thấy rằng cơ quan quản lý không đủ sức. Trước đây dự trữ ngoại hốicủa VN ở mức thấp nhưng NHNN vẫn có thể bán ngoại tệ cho một số lĩnh vực để tạosự bình ổn thị trường.

- Doanh nghiệp VN đang phải chịu lãi suất cao, lên đến 20%/năm. Tuy nhiên nhiềuý kiến không ủng hộ phương án giảm lãi suất vì sẽ tạo ra lạm phát?

- Các NH thương mại không quyết định được lãi suất mà phải dựa trên cơ sở thỏathuận giữa người mua, người bán, đảm bảo nguyên tắc NH thương mại có lời. Tuynhiên ngược lại, NHNN không thể nói như vậy vì lạm phát có thể đến do nhiềunguyên nhân, nhưng khi lạm phát xảy ra thì chống lạm phát phải bắt nguồn từchính sách tiền tệ. Trách nhiệm chính của NHNN là giữ ổn định giá cả, do vậykhông thể nói là chờ lạm phát xuống mới giảm lãi suất.

Lãi suất là một công cụ điều hành - tuy không phải là duy nhất nhưng rất quantrọng - của NHNN và NHNN phải vận hành linh hoạt để đạt được mục tiêu điều hành,có thể tác động đến mức lạm phát cũng như tạo ra mặt bằng giá mới. Hiện lãi suấthuy động NH cao hơn tất cả các mục tiêu lạm phát mà Quốc hội đề ra. Nếu lạm phát10%, lãi suất huy động 14-16% thì chỉ cần gửi tiền NH một năm cũng nhận được lãiròng 5%/năm.

Theo tôi, lãi suất cao có nguyên nhân do NHNN đặt ra nhiều hạn chế bất bìnhthường dưới nhãn “an toàn hệ thống” khiến khả năng sử dụng vốn của các NH thươngmại ít hơn hẳn.

Chẳng hạn trước đây nguồn vốn huy động của NH được tính cả tiềngửi kho bạc, vốn vay liên NH và tiền gửi thanh toán nhưng hiện nay NHNN loại cáckhoản này ra khỏi nguồn vốn huy động và giới hạn cho vay không quá 80% vốn huyđộng. Đầu vào bị cắt đi nhiều khoản trong khi đầu ra lại không được cho vay theothanh khoản của từng NH khiến chi phí đầu vào bị đẩy lên quá cao và lãi suất chovay bị đẩy lên cao hơn mức được cho là hợp lý trên thị trường.

Ủy ban Giám sát tài chính đang đề xuất cơ quan quản lý phải rà lại các quy địnhtrong thông tư 13 và 19 để loại bỏ những quy định bất hợp lý. Bắt tổ chức tíndụng cho vay 80% vốn huy động với một số quy định như vậy thực chất là đang bắtmỗi NH trở thành một kho dự trữ riêng nhưng không tạo ra các kênh dẫn thông vàonền kinh tế.

NHNN có thể chống lạm phát bằng cách tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc,đưa nguồn tiền về NHNN để nơi này có thể điều tiết khi cần thiết. Như vậy các NHvừa có lãi suất, vừa tăng nguồn thu cho ngân sách.

Theo Ánh Hồng
Tuổi trẻ cuối tuần