Ông Đỗ Văn Kỳ(52 tuổi, ngụ tại ấp Bến Đình, xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - VũngTàu) là một ngư dân chính hiệu hành nghề trên dòng Thị Vải.

Hồi ức mộtdòng sông

Năm 1982, vợ chồngông Kỳ từ Huế vào xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành lập nghiệp. Vốn sẵn có nghề chàilưới, vào đây gặp dòng Thị Vải lắm cá nhiều tôm nên dù đông con, vợ chồng ông Kỳcũng đủ lo cho chín miệng ăn trong nhà nhờ nghề lưới cá.

Ông Kỳ nhớ lại:“Lúc đó dòng Thị Vải xanh mát, những doi đất bên bờ um tùm cây cối. Nước trongđến nỗi có thể nhìn thấy lũ cá đối, cá đục bơi gần bờ. Ngày ấy cá tôm trên dòngThị Vải nhiều lắm. Cứ theo con nước mà tôi lại chèo ghe nhỏ ra sông. Còn vợ tôiở nhà lo đan lưới, chăm con và nuôi heo. Cuộc sống của gia đình không giàu cónhưng không đến nỗi chật vật”.

Khốn khó vì Vedan: Sông chết, người ly tán
Ông Lợi với hồi ức về một dòng sông đầy cá tôm thời quá khứ-
Ảnh: Minh Luận

Bà Lê Thị Gái, vợông Kỳ, góp chuyện: “Có những hôm anh Kỳ đánh được nhiều cá bán ở chợ xã, chợhuyện không hết, vợ chồng phải chở sang Long Thành, Đồng Nai để bán”.

Trung bình mỗichuyến ghe về bà Gái đem cá tôm bán cũng kiếm được 100.000-150.000 đồng. Nươngtheo con nước, dựa vào dòng Thị Vải, vợ chồng ông Kỳ lo được cho cả thảy nămngười con ăn học đàng hoàng. Tụi nhỏ không phải lo chuyện bỏ học giữa chừng.

Rời sông lênbờ...

Thế nhưng đến lúccác con họ vào tuổi sắp trưởng thành cũng là lúc khó khăn. Dòng Thị Vải “chết”dần vì nước thải của Vedan. Từ năm năm trở lại đây, cá tôm ngày một ít dần rồigần như không còn sống nổi trên dòng sông này. Có lúc ông dong ghe lưới đi từchiều đến rạng sáng nhưng cũng chỉ được vài con cá nhỏ, tôm cua gần như không hềcó.

“Khi sông Thị Vảibị ô nhiễm, mỗi lần đi ghe ra đánh cá là tôi lại xây xẩm mặt mày, người khi nàocũng muốn nôn, ói, chân tay lở loét” - ông Kỳ nói. Còn vợ ông cho biết lưới đánhcá chỉ được vài tháng là mục nát.

Giọng ông Kỳ thiệtbuồn: “Mình mưu sinh trên con sông này, biết nó từ lúc còn xanh trong đến lúcchết dần vì ô nhiễm nhưng không biết kêu ai. May mà họ bị bắt quả tang...”.

Gần ba năm vềtrước, vợ chồng ông Kỳ đã phải bỏ sông lên bờ tìm kế mưu sinh. Bao nhiêu vốnliếng dành dụm được đổ vào chiếc ghe mảnh lưới, nay lên bờ không một đồng vốnlận lưng. Vợ chồng ông phải làm thuê mướn nuôi con ăn học.

Lúc gia đình kiệtquệ vì bỏ nghề lưới cá cũng là lúc hai con lớn của ông bà đều thi đỗ đại học.Hiện hai em Đỗ Thị Thu Sương và Đỗ Văn Cương đang là sinh viên năm cuối Trườngđại học Kinh tế TP.HCM và Đại học Công nghiệp Hà Nội (chi nhánh TP.HCM).

Hai vợ chồng dắtnhau đi làm phụ hồ. Hết làm phụ hồ, ông bà lại đi hốt phân gà thuê cho các trạigà trong xã. Mỗi bao phân gà 50-60kg hốt được vác về điểm tập trung giao chochủ, ông bà được trả công 1.000 đồng. Các trại gà trong xã hết phân, ông bà phảilần tìm sang các xã khác. Cuộc đời là chuỗi dài ly tán.

“Bến cảng”treo thuyền

Ở ấp Bến Đình cómột con rạch nhỏ dẫn ra dòng Thị Vải. Con rạch này nằm sát khu dân cư nên từ lâunơi đây trở thành “bến cảng” neo đậu xuồng, ghe nhỏ của bà con. Nhiều người dânở đây cho biết ngày trước cây tràm, cây đước ở các con rạch trong vùng tươi tốtlắm. Cá thòi lòi nhảy tanh tách trên bờ rạch. Chỉ chèo xuồng, ghe đi một hồi làcó cá về ăn, vì vậy người dân quây quần nơi đây chọn nghề chài lưới trên sôngThị Vải để sinh sống.

Thế nhưng, cách đâymấy năm nguồn tôm cá cạn kiệt. Nguồn nước bị ô nhiễm bởi Vedan xả thải. Nhiều bàcon đã phải bán ghe, “treo” ghe chuyển sang nghề khác.

Hôm chúng tôi đến“bến cảng” quê nghèo này chỉ còn nhìn thấy trơ lại bốn chiếc ghe nhỏ. Ông TrịnhHữu Lợi (56 tuổi) đang loay hoay dong ghe ra dòng Thị Vải chuẩn bị chuyến điđánh bắt cá trong ngày. Ông Lợi nuối tiếc nhớ lại: “Lúc Vedan chưa xả thải, ngưdân chúng tôi đánh cá đạt lắm. Bà con phải đem cá bán cho nơi khác”.

Nhờ vào nguồn lợitrên sông Thị Vải, ông Lợi đã tích cóp xây được căn nhà cấp bốn, mái lợp tôn.Nhưng mấy năm trở lại đây, cuộc sống gia đình ông rơi vào khó khăn bởi cá, tômtrên sông đã vắng bóng.

Khi những đứa con,đứa vào đại học, đứa chuẩn bị thi, đứa vào cấp III cũng là lúc ám ảnh chuyện concái bỏ học giữa chừng ập đến. Ông Lợi than: “Đúng lúc tôi cần tiền để lo cho concái ăn học cũng là lúc dòng Thị Vải, chốn mưu sinh duy nhất, bị người ta đầuđộc”.

 Không có tiền đểcùng lúc cho các con ăn học nên cô chị lớn phải bỏ quê đi làm công nhân, kiếmtiền phụ cha mẹ nuôi hai em đi học.

“Chuyện ăn học củahai đứa nhỏ, gia đình tôi phải nhờ vào đồng lương công nhân của con gái đầu lòngphụ giúp, một phần khác phải vay mượn bên ngoài, chứ chỉ nhờ vào nghề cá củamình thì không kham nổi” - ông Lợi nói.

Gồng gánh lắm rồiông cũng nuôi được cậu con trai thứ hai là Trịnh Hữu Trung học đại học ở TP.HCM.Con gái út Trịnh Thị Phương Nam hiện đang học lớp 11 Trường THPT Phú Mỹ (huyệnTân Thành). Vợ ông Lợi nói: “Mấy tháng hè cháu Phương Nam phải đi bưng bê choquán nước ngoài thị trấn. Mỗi tháng người ta trả công 800.000 đồng, cháu để dànhmua tập vở”.

Cách không xa nhàông Lợi là gia đình ông Nguyễn Văn Sau. Ông Sau cũng theo nghề chài lưới trênsông mấy chục năm nay. Nhìn đăm đăm ra dòng Thị Vải, ông Sau nhớ lại một đoạnhồi ức buồn: “Có đêm đang đánh cá bất chợt Nhà máy Vedan xả thải, hơi độc nồngnặc làm tôi choáng váng ngã ập xuống nước, ơn trời lúc đó tự nhiên gượng dậyđược lóp ngóp đu ghe rồi nhờ bạn chài đẩy về nhà”.

Từ đó ông bỏ nghề,xếp lưới bó chân ở nhà.

Không ruộng vườn,không nghề nghiệp, chỉ trong vòng mấy năm xa dòng Thị Vải gia đình ông Sau trởnên kiệt quệ vì không có nguồn thu nhập nào khác. Ông Sau có bốn người con thìcả ba đứa đầu cũng nối nhau bỏ học giữa chừng đi làm thuê làm mướn kiếm cái ăn.

Hiện gia đình ôngchỉ có cô gái út Nguyễn Thị Hồng vừa thi đại học xong, chưa biết đậu rớt thế nàonhưng: “Ba anh chị của nó bỏ học rồi, riêng nó là con út lại ham học nên dù khókhăn, cực khổ đến mấy vợ chồng tôi cũng cố gắng chạy vạy cho cháu theo học.Không học được đại học thì vào trung cấp có cái nghề cho đỡ thân chứ không lẽ cảnhà cứ đi làm thuê làm mướn cho người ta”.

Nói xong ông Sauhướng ánh mắt đầy tư lự ra phía dòng sông chết. Nó ra đi cũng là giết cả tươnglai của con cháu bao người...

Theo MinhLuận - Đông Hà
Tuổi Trẻ