Thứ nhất, theo quy địnhtại Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Ngân hàng Nhà nước (cóhiệu lực thi hành từ 1/10/2010) thì tổ chức tín dụng (TCTD) chỉ được sửdụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước và sau khicấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả và các tỷ lệ đảm bảo antoàn khác quy định tại thông tư này và không vượt quá tỷ lệ 80% (đối vớingân hàng, hoặc 85% (đối với các TCTD phi ngân hàng).
Nghĩa là ngân hànghuy động được 100 tỉ đồng thì chỉ được cho vay tối đa 80 tỉ đồng, số cònlại để phục vụ cho công tác thanh khoản.
Trong các tỷ lệ đảm bảo antoàn khác, có tỷ lệ “an toàn vốn tối thiểu” gọi tắt là CAR (Capital AdequacyRatio) được nâng từ mức CAR >8% hiện hành lên mức > 9% theo Thông tư 13.
Như vậy, theo quy định này,các ngân hàng phải giảm nguồn vốn huy động hay giảm tổng tài sản có đã đượcđiều chỉnh theo mức độ rủi ro (mẫu số).
Trong tài sản có rủi ro hiệnnay của ngân hàng chủ yếu vẫn là tín dụng. Nghĩa là trước đây ngân hàng có100 tỉ đồng vốn tự có thì được huy động tối đa 1.250 tỉ đồng (gấp 12,5 lầnvốn tự có) để cho vay và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác (100 tỉ/1.250tỉ = 8%).
Nay theo quy định mới, với100 tỉ đồng vốn tự có, các ngân hàng chỉ được huy động 1.110 tỉ đồng để chovay, kinh doanh (100/1.110 = 9%) giảm 140 tỉ đồng tài sản có sinh lời.
![]() |
Khi tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tăng thì ngân hàng phải giảm huy động, đồng nghĩa với mức tăng trưởng tín dụng khó có thể tăng lên |
Như vậy,ngoài rào cản kỹ thuật thứ nhất là cácngân hàng chỉ được phép sử dụng 80% vốnhuy động để cấp tín dụng, thì ở rào cảnthứ hai ngân hàng phải giảm vốn huy độngđể cho vay.
Điều này cho thấy, khi chiphí bỏ ra quá lớn cho khoản dự phòng thanh khoản 20 tỉ đồng (100 tỉ - 80 tỉ)không có khả năng sinh lời như phân tích trên, thì lãi suất cho vay khó cóthể giảm.
Khi lãi suất cho vay khó giảmthì đương nhiên lãi suất huy động cũng khó bớt đi. Hơn nữa, khi tỷ lệ CARtăng từ 8% lên 9% thì ngân hàng phải giảm huy động, giảm tài sản có sinh lời,điều đó cũng đồng nghĩa với mức tăng trưởng tín dụng khó có thể tăng lên dongân hàng thiếu nguồn.
Thứ hai, cũng theo quy địnhtại Thông tư 13, phần đang gây tranh luận nhiều nhất là nguồn vốn huy độngđể cho vay không bao gồm phần tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế,Kho bạc Nhà nước, bảo hiểm xã hội..., trong khi theo tính toán của các ngânhàng thương mại, tỷ lệ huy động tiền gửi không kỳ hạn dưới dạng này chiếmvào khoảng 15% tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng.
|
Nếu cộng 20%phần không được cho vay và 15% nói trên,tương đương 15 tỉ đồng thì tổng số tiềnphục vụ cho thanh khoản (không sinh lời)tăng lên là 35 tỉ đồng, tương đương 35%tổng nguồn vốn huy động. Phần để cho vaychỉ còn 65 tỉ đồng. Nếu tính đúng, tínhđủ các chi phí hoạt động, trích dự trữbắt buộc, dự phòng rủi ro, thuế... thìphần cho vay ròng còn lại chỉ vào khoảng60 tỉ đồng.
Điều đó cũng đồng nghĩa vớiviệc chi phí hoạt động của hàng tăng lênvà buộc các ngân hàng phải tăng lãi suấtcho vay, dẫn đến tăng lãi suất huy độngvà cuối cùng là giảm cung ứng tín dụng.
Rõ ràng, để đạt mục tiêu antoàn hoạt động thì ngân hàng phải cắt giảm cung ứng tín dụng và giảm nguồnvốn huy động theo quy định CAR... dẫn đến tăng trưởng tín dụng giảm xuống.Ngược lại, để đạt mục tiêu giảm lãi suất thì các tỷ lệ trên phải được nớirộng ra, trong khi theo Thông tư số 13 thì các tỷ lệ trên bị thu hẹp lại,dẫn đến các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để bù đắp cho những chi phíthực hiện các nghĩa vụ.
Như vậy, để đạt được cùng mộtlúc các mục tiêu trên, trước mắt Ngân hàng Nhà nước nên cân nhắc, gia hạnthêm thời gian thực hiện Thông tư số 13 đến hết năm 2010 nhằm ưu tiên chotăng trưởng tín dụng và hạ lãi suất trong năm 2010 theo như kế hoạch đã đềra.
|
Theo TS. Tôn ThanhTâm
TBKTSG