Dù các ngân hàngthương mại đã giảm lãi suất huy động xuống còn 13%/năm, giảm lãi suất chovay xuống còn 16% đến 18%/năm nhưng trên thực tế theo phản ánh của nhiều DN,việc tiếp cận để vay được mức lãi suất đó không hề dễ dàng.
TS. Lê ThẩmDương- Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, Trường ĐH Ngân hàng TP.Hồ Chí Minhtrao đổi về vấn đề này.
Thành công lớn
- Có rất nhiều công cụ để điều hành chínhsách tiền tệ. Để nền kinh tế ổn định thì lãi suất phải được điều chỉnhsao cho hài hòa, cân xứng; lãi suất trong hiện tại đang phải gánh quánhiều trọng trách: Một mặt, vừa là công cụ tham gia vào quá trình giữvững chỉ tiêu tăng trưởng GDP, mặt khác cũng phải vừa tham gia vào quátrình giữ vững tỷ giá, tính thanh khoản của hệ thống Ngân hàng lẫn kìmchế lạm phát… Chính vì thế các mục tiêu đặt lên vai lãi suất có tính đốilập nhau; được cái này sẽ mất cái kia và ngược lại, do đó phải biết hàihòa và cân nhắc cụ thể.
Động thái của NHNN vừa qua đã có những tácdụng thực sự. Với người đi gửi tiền, dù đã giảm 1% thì đây vẫn là mộtkênh tiết kiệm có hiệu quả trong thời buổi hiện nay vì với CPI hiện tạingười gửi có một lãi thực dương khá tốt. Hơn nữa, nếu đầu tư vào vàngthì rất bấp bênh, một dòng tiền đầu tư sang lĩnh vực chứng khoán nhưngcũng chỉ dừng ở những mã nhất định. Bất động sản thì quá khó trên nhiềuphương diện.
![]() |
Tiến sĩ Lê Thẩm Dương: Việc hạ lãi suất vừa qua là một thành công bước đầu. |
Đối với ngân hàng thì khi giảm 1% đầu vàocộng với tiền gửi giá rẻ (tiền gửi thanh toán chỉ 5%/năm), ước tínhtrung bình cả lãi suất huy động lẫn lãi suất thanh toán chỉ 10 đến 11%thì các ngân hàng hoàn toàn có cơ sở để giảm lãi suất cho vay xuống từ1,5 đến 2,5%/năm. Chứ không phải cứ đầu vào giảm 1% thì đầu ra cũng giảm1%. Còn đối với người đi vay của ngân hàng cũng rất có lợi, dù mức giảmchỉ một vài phần trăm và điều kiện để dược vay khá khó khăn nhưng nó là“cứu cánh” với nhiều DN; nếu tính ở tầm vĩ mô thì mức giảm đó không hềnhỏ.
Không hạ thì nói không hạ, hạ ít thì nóikhông có ý nghĩa gì trong lúc nhiều DN đang ngắc ngoải, như vậy là chưacông bằng. Theo tôi, động thái trên của ngân hàng Nhà nước rất bìnhtĩnh, bài bản và có lộ trình: Giảm trong tâm thế của người chủ động chứkhông bị động, áp lực như trước đây vì nó được dựa trên cơ sở của mứcCPI và độ ổn định của nó, dựa trên yếu tố thanh khoản đã được kiểm soátở mức độ nhất định và giảm từ từ . Rõ ràng đây là một thành công lớnbước đầu.
- Liệu việc giảm 1% vừa qua có tạo rabước đột phá nào cho nền kinh tế hay không, thưa ông?
- Về vấn đề đột phá thì quả thật trong bốicảnh hiện nay, việc giảm 1% chưa thể tạo ra được bước ngoặt nào đáng kể.Tuy nhiên, đây là nền tảng và cơ sở chứa ẩn của nhiều bước đột phá trongthời gian tới. Nếu không giảm từ từ thì sẽ dẫn đến tình trạng mất cânbằng và ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về thanh khoản, lạm phát và tỷ giá…
- Nhiều DN cho rằng, có nhiều tuyên bốcủa ngân hàng này nọ là đã giảm lãi suất cho vay xuống 16% đến 17%/năm,nhưng thực tế thì rất ít DN tiếp cận được nguồn vốn đó, thậm chí cóngười cho rằng những tuyên bố đó chỉ là chiêu PR cho ngân hàng, vậy ôngđánh giá như thế nào về vấn đề này? Đâu là nguyên nhân dẫn đến tìnhtrạng trên?
- Tôi không nghĩ những tuyên bố của một sốngân hàng về việc giảm lãi suất cho vay xuống thấp là khuếch trương,“đánh bóng” vì đó là một nỗ lực lớn của NHNN và toàn hệ thống ngân hàngđể kéo giảm. Có chăng thì đó cũng chỉ là động tác kinh doanh của một sốnhỏ mà thôi. Còn lãi suất là giảm thật, tuy nhiên vấn đề tiếp cận và địachỉ đến của vốn tín dụng như thế nào thì cần giải quyết tiếp. Dù biếtrằng những lĩnh vực được chỉ định ưu tiên như nông nghiệp nông thôn,xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, DN vừa và nhỏ nhưng trên thực tế vẫnphát sinh nhiều vấn đề.
DN cũng nên hiểu và thông cảm, ngân hànghoạt động là nhằm mục đích kinh doanh kiếm lợi nhuận nên họ không thểgiảm trong một sớm một chiều được, bởi trước đó họ cũng phải huy độngvới lãi suất cao. Hơn nữa, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thếgiới diễn biến khó lường thì việc các ngân hàng đưa ra nhiều điều kiệnđể ràng buộc với DN đi vay cũng là điều dễ hiểu. DN phải đạt chuẩn vềcác mặt như pháp lý, uy tín, mục đích vay vốn, khả năng tạo lợi nhuận,môi trường kinh doanh, năng lực tài chính… thì ngân hàng mới dám chovay.
Còn việc DN “kêu” không có tài sản thế chấpnên ngân hàng không cho vay chỉ là một trong các nguyên nhân. Ngoài thếchấp còn là các điều kiện trên, nếu không đáp ứng những điều kiện đó thìDN khó mà tiếp cận được nguồn vốn. Nhiều ngân hàng cũng rất muốn cho DNvay lắm nhưng số DN đủ chuẩn để được vay lại ít nên để đảm bảo hoạtđộng ít rủi ro, nhiều ngân hàng đã tìm đến thị trường liên ngân hànghoặc đầu tư vào trái phiếu chính phủ…hoặc còn cứng nhắc trong điều kiệntài sản thế chấp. Cả hai bên cùng cải thiện thì tôi nghĩ, quá trình gặpnhau mới suôn sẻ và bền vững hơn.
- Nhận định của ông về lãi suất trongthời gian tới? Để phát triển và ổn định nền kinh tế, ngoài các yếu tốkhác, theo ông, mức lãi suất cho vay nên dừng ở mức nào là hợp lý?
- Chắc chắn trong thời gian tới lãi suất sẽgiảm xuống, bởi chúng ta đã có lộ trình cụ thể, vấn đề là giảm như thếnào và đến mức nào mà thôi. Hơn nữa, với mức lãi suất như hiện nay vẫnlà quá sức với DN. Sở dĩ như vậy là bởi hầu hết DN của chúng ta là vừavà nhỏ, vốn chủ yếu lại đi vay ngân hàng với lãi suất cao cộng với trìnhđộ quản lý yếu nên rất khó cạnh tranh. Từ đây, tỷ suất lợi nhuận sẽthấp, thậm chí phá sản là chuyện bình thường.
Theo tôi thì để DN có thể “thở được” trongnăm 2012 này thì lãi suất cho vay của các ngân hàng nên dừng ở mức 12%đến 14%/năm. Đây là mức lãi suất hoàn toàn có cơ sở, còn để tạo bước độtphá cho DN “bật dậy” mạnh mẽ thì trong tương lai, mức lãi suất cho vaynên dừng ở mức 6% đến 8% là hợp lý nhất.
- Xin cảm ơn ông.
Theo PLVN