Ngày 1/12, sau hai cuộc họpvới thành viên hai miền, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) gửi  đi thông điệpgiữ nguyên mặt bằng lãi suất huy động 12%/năm, tôn trọng sự khuyến mại của cáctổ chức tín dụng.

Hành động của VNBA là rất cần thiết, nhưng giải bài toán lãi suất lại không chỉcó tổ chức này và Ngân hàng Nhà nước là đủ.

Lạm phát cao thì tăng lãi suất

Ba tuần nay, lãi suất hai chiều tiếp tục cao ngất ngưởng. Mức huy động 13% -13,5%/năm và cho vay 18% - 19% không còn cá biệt, thậm chí có ngân hàng còn đặtlãi suất cho vay tới 1,8%/tháng. 

Trước tình hình này, ngày 26/11, VNBA đã họp với các thành viên phía Bắc và saukhi làm việc với các thành viên phía Nam, ngày 1/12, tổ chức này cho biết, cáchội viên nhất trí giữ nguyên lãi suất huy động ở 12%/năm, đây là mức đồng thuậntừ 5/11/2010. 

Đồng thời, VNBA tôn trọng các hội viên thực hiện khuyến mại, cộng thưởng, nhưngkhông vượt quá quy định của luật về khuyến mại.

Một chuyên gia ngân hàng của VNBA cho biết thêm, nếu giữ được mặt bằng lãi suấthuy động hiện có thì các ngân hàng sẽ giảm lãi suất cho vay trong thời gian tới.Tất nhiên, nhóm 3 đối tượng (doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay xuất khẩu và khuvực nông thôn) vẫn được ưu tiên vay với mức lãi suất thấp hơn, đặc biệt là cácngân hàng thương mại nhà nước phải đi đầu trong vấn đề này.

Quan sát diễn biến lãi suất trên thị trường, thấy nổi lên hai vấn đề: nếu nhưthị trường 1 nóng lên thì thị trường 2 lại bình lặng. Ông Lê  Xuân Nghĩa, Phóchủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia phân tích: “Đừng quên một nguyên tắc,nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là ổn định thị trường 2, còn thị trường 1 làdo cung, cầu thị trường”.

Theo ông Nghĩa, trong bối cảnh lạm phát cao (CPI 11 tháng năm nay tăng 8,96% sovới cùng kỳ) thì biện pháp cơ bản nhất vẫn là tăng lãi suất. Trước hết, tăng lãisuất sẽ góp phần làm cho VND tăng giá và tỷ giá ổn định hơn. Đồng thời, khi tănglãi suất, sẽ làm giảm đầu tư và tiêu dùng, tăng tiết kiệm, từ đó, lạm phát giảmnhiệt dần.

Đã đành trong bất luận trường hợp nào, lạm phát đều có nguyên nhân tiền tệ nhưngở Việt Nam hiện nay, lạm phát còn gắn với một số yếu tố thiên tai, dịch bệnh,làm cho cung hàng nông phẩm giảm. Cùng đó, dân chúng khi thấy ngoại tệ và vàngcó xu hướng tăng giá, một phần tiết kiệm của họ lại để dành dưới dạng mua ngoạitệ, mua vàng làm cho tiền gửi của dân chúng tăng không đồng đều như thời kỳ ổnđịnh.

Chưa kể, giữa vàng và ngoại tệ có mối quan hệ khá chặt chẽ với sự tăng giá thôngqua quan hệ nhập khẩu - xuất khẩu. Bởi lẽ, khi tỷ giá tăng hoặc kỳ vọng tăng sẽkéo theo chi phí hàng nhập khẩu tăng, kể cả nguyên liệu, vật tư hay hàng tiêudùng, từ đó đẩy giá cả tăng theo.  

Nan giải bài toán lãi suất
Ba tuần nay, lãi suất hai chiều tiếp tục cao ngất ngưởng

Nhìn toàn cục

Như vậy, có vẻ như ở thời điểm này, nỗi lo thanh khoản hệ thống ngân hàng tạmyên  ổn, còn lãi suất cho vay cao là chuyện của thị trường. Dù vậy, nhìn từ gócđộ rủi ro, trưởng phòng quản lý rủi ro một ngân hàng thương mại nhà nước chorằng, những ngân hàng nào nếu để lãi suất hai chiều quá cao sẽ phải đổi mặt vớihai loại rủi ro: kỳ hạn và hối đoái.

Thứ  nhất, theo ông này, phổ biến trên thị trường hiện nay là tiền gửi kỳ hạnngắn, kể cả kỳ hạn dài cũng được “mông má” lại thành kỳ hạn ngắn. Ví dụ, hai bêncó thể mặc cả với nhau: “Cứ gửi theo tuần hay tháng nhưng trong hợp đồng ghi làgửi trung - dài hạn và muốn rút lúc nào, cứ…tự nhiên!”. 

Thực tế lạ lùng này cho thấy một thứ thỏa thuận cực kỳ nguy hiểm rằng: lãi suấtkỳ hạn ngắn và trung dài hạn lại bằng nhau; tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạncó thể hoán đổi cho nhau một cách thật dễ dàng.

Nhưng ngược lại, ngân hàng thương mại cho vay thì không thể đòi tiền khách hàngbất cứ lúc nào. Chưa kể, trên bảng cân đối tài chính, các tài khoản “Nợ” và “Có”tất nhiên phải làm “điêu” và như vậy, rất khó để biết được “sức khỏe” của mỗingân hàng như thế nào.

Thứ  hai là rủi ro hối đoái. Thời gian qua, nhiều ngân hàng thương mại cho vayngoại tệ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp không có nguồn thungoại tệ từ xuất khẩu không phải ít. Những đối tượng này ngoài việc đối mặt vớirủi ro lãi suất (ngoại tệ) do lãi suất tăng lên thì họ còn phải chịu rủi ro hốiđoái rất lớn khi tỷ giá tăng. Và khi người vay khó khăn hoặc chây ỳ trả nợ sẽdẫn tới nợ xấu cho ngân hàng.

Trở lại một chút với câu chuyện lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, một sốchuyên gia quốc tế cho rằng, ngân hàng trung ương Việt Nam nên tăng lãi suất OMO,chiết khấu, tái cấp vốn lên cao hơn nữa, thậm chí ở mức 12%/năm để vừa đánh đithông điệp thắt chặt tiền tệ nhưng cũng tránh hiện tượng một số ngân hàng thươngmại lớn, nhất là những ngân hàng thương mại nhà nước sử dụng lãi suất tái cấpvốn của ngân hàng Trung ương để đầu cơ. 

Ví dụ, họ vay ngân hàng trung ương lãi suất thấp, mua trái phiếu Chính phủ lãisuất cao hơn, biến tiền của ngân hàng trung ương thành tiền ngân sách mà khôngcung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp.

Đến đây, cũng nên liên hệ một chút với cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Thựctế, hầu hết các ngân hàng thương mại châu Âu đều được vay các ngân hàng Trungương một lượng tiền khá lớn với lãi suất 1%. Sau đó, họ mua trái phiếu chính phủnhững nước đang gặp khó khăn tài chính với mức lãi suất 4% - 4,5% để kiếm lờitrên thị trường thứ cấp mà không cung ứng vốn cho nền kinh tế như Chính phủ cácnước họ.

Mặc dù, ngân hàng trung ương các nước đó khi cung vốn với giá thấp chỉ hy vọngngân hàng thương mại sẽ cho vay thấp nhưng kết quả không như vậy. Cộng với yếutố một số hãng đánh giá tín nhiệm nước ngoài công bố chỉ số tín nhiệm Hy Lạp,Ireland, Ý, Tây Ban Nha…luôn ở mức thấp. 

Chỉ số tín nhiệm trên càng thấp thì lãi suất trái phiếu chính phủ nước họ càngcao và các ngân hàng thương mại tưởng rằng có hiệu quả với khoản đầu tư của mìnhnhưng thực tế đã mang về những khoản nợ đầy rủi ro.

Tất nhiên, so sánh việc các ngân hàng thương mại Việt Nam mua trái phiếu Chínhphủ Việt Nam với các ngân hàng thương mại châu Âu rồi nói rằng có những nủi rotương tự là hơi khập khiễng nhưng ở đây có một nét chung cần lưu ý là hành vinày đều giống nhau ở chỗ là vay tái cấp vốn hoặc giao dịch OMO để thụ hưởng lợichênh lệch lãi suất, chứ chưa đạt được mục tiêu cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Bởi vậy, ông Nghĩa cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, Ngân hàng Nhà nước giảiquyết được ổn định thanh khoản là cái gốc của vấn đề nhưng từ đó để đi đến hệquả giảm chi phí vốn cho nền kinh tế lại là vấn đề khác.

Và lời giải cho bài toán này phải đi từ những giải pháp tổng thể, bao gồm kiềmchế lạm phát, ổn định tỷ giá cũng như cung cách điều hành của Ngân hàng Nhà nướcvà sự phối hợp nhịp nhàng của Bộ Tài chính trong vấn đề phát hành trái phiếuChính phủ.

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy