Những ngày này, khi dịpĐại lễ 1000 năm đang đến gần và thông tin thời tiết đang trở thành mối quan tâmcủa nhiều người thì dư luận lại nóng lên bởi tuyên bố của một nhà phong thủy, cóthể xua mưa, đuổi gió chỉ bằng ý thức.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việcđiều khiển mưa, tạo mưa theo ý muốn đã được các nhà khoa học Việt Nam bắt taytriển khai từ 12 năm nay. Thậm chí, ít nhất theo như kinh phí Nhà nước cấp chodự án làm mưa nhân tạo thì đã có đến 2 dự án đã được ra đời. Thế nhưng, chuyệnđiều khiển mưa có lẽ vẫn còn nằm trên giấy mà chưa đi vào thực tế...
Đã hoàn tất công nghệ vàcơ sở dữ liệu để làm mưa nhân tạo
Tìm lại người đầu tiên bắt tayvào nghiên cứu mưa nhân tạo ở Việt Nam là GS.TS Lê Đình Quang, Nguyên giám đốcTrung tâm nghiên cứu Khí tượng nhiệt đới và bão (Viện Khí tượng Thuỷ văn), Phóchủ nhiệm dự án đề tài "Những điều kiện và khả năng làm mưa nhân tạo ở TâyNguyên" năm 1998.
Ông cho biết, đề tài đã được hoànthành với những kết quả nghiên cứu bước đầu trong đó có việc xác định tài nguyênmây ở Tây Nguyên (hoàn thành năm 1999). Lúc đó, những kết quả nghiên cứu khoahọc đã khẳng định Tây Nguyên có đủ điều kiện làm mưa nhân tạo.
|
|
Các nhà khoa học cũng đã đưa rađược công nghệ làm mưa nhân tạo gồm 3 giai đoạn.
Giai đoạn đầu tiên là sử dụng hoáchất kích thích khối không khí đi lên nhằm tăng cường và tạo thành mây mưa. Hoáchất được sử dụng trong giai đoạn này là calcium chlorid, calcium carbid,calcium oxid, hợp chất của muối và urê, thành phần urê và anlonium nitrat. Nhữnghợp chất này có khả năng hấp thụ hơi nước từ khối không khí, vì vậy kích thíchquá trình ngưng tụ.
Giai đoạn tiếp theo được gọi làgiai đoạn tích luỹ. Khi đó những khối mây này được tích tụ đã làm tăng hạt nhânngưng kết đồng thời làm gia tăng mật độ hạt mát.
Giai đoạn cuối là việc bắn vàocác khối mây các loại hoá chất chậm đông gồm iodur bạc và băng khô được sử dụngđể đạt được tình trạng mất cân bằng cao nhất, tạo ra nhiều hạt nước làm chúngrơi xuống đất. Đến đây quá trình làm mưa nhân tạo hoàn tất.
Về mặt lý thuyết vật lý, làm mưanhân tạo không khó và hoàn toàn có thể thực hiện được. Thực tế cũng chứng minh,hiện nay trên thế giới đã có 28 nước làm chủ được công nghệ này.
Còn nhớ khi đó, trong nhiều cuộchội thảo về mưa nhân tạo, nhóm nghiên cứu đã thông báo, chậm nhất là đến năm2000, chuyến bay trình diễn đầu tiên làm mưa nhân tạo sẽ được tiến hành. Nhưngcái khoảng thời gian chậm nhất ấy lại một lần nữa bị kéo lùi lại với lời hứa hẹnđến tháng 3/2003 và rồi đến nay, không hiểu vì lý do gì mà nó vẫn chưa diễn ra.
Lời hứa 2010 sẽ có mưanhân tạo
|
Về mặt lý thuyết vật lý, làm mưa nhân tạo không khó và hoàn toàn có thể thực hiện được. Ảnh minh họa |
Rồi dư luận lại ngã ngửa khi 8năm sau đó, năm 2004, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo Tổng cục Khí tượngThuỷ văn lại lập dự án làm mưa nhân tạo với tiêu đề : “Nghiên cứu xây dựng cơsở khoa học kỹ thuật để làm mưa nhân tạo ở Việt Nam ”. Đề tài được thực hiệntrong hai năm 2004- 2006.
PGS.TS Vũ Thanh Ca, lúc đó làquyền giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới (Viện Khí tượng Thuỷvăn), đơn vị được giao thực hiện đề tài đã cho biết, kết quả của đề tài này sẽlà cơ sở để tiến tới thử nghiệm làm mưa nhân tạo ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ vàtrung du Bắc Bộ.
Dư luận một lần nữa thấp thỏm chờvới câu hỏi lớn đặt ra trong đầu: các kết quả nghiên cứu trước đó tại sao đãđược nghiệm thu mà không sử dụng, nó đã đi đâu, về đâu? Tại sao có một dự án làmmưa nhân tạo rồi, nay lại còn sinh ra một dự án khác làm gì?
|
Đặt câu hỏi “Tại sao không sửdụng kết quả nghiên cứu của đề tài trước là chọn Tây Nguyên làm địa điểm thửnghiệm làm mưa nhân tạo mà nay lại chọn đồng bằng Bắc Bộ và trung du Bắc Bộ?”,TS Vũ Thanh Ca cho rằng, sở dĩ nhóm chọn đồng bằng Bắc Bộ và trung du Bắc Bộ vìkhu vực này đã có những số liệu tương đối đầy đủ và cơ sở hạ tầng tốt nhất (mặcdù chưa phải là đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu nghiên cứu).
Theo đánh giá ban đầu, vào mùakhô hạn, ở khu vực này có thể có đủ mây với những điều kiện thích hợp để làm mưanhân tạo khi những đợt không khí lạnh tràn về. Bên cạnh đó, đề tài cũ cũng khẳngđịnh khu vực Tây Nguyên chỉ đủ điều kiện làm mưa trong thời điểm cuối mùa mưa,đầu mùa khô (thời điểm này cũng khó xác định) và tính chất của mây cũng chưađược làm rõ nên không thể chắc chắn khi đưa công nghệ vào có hiệu quả hay không.Tại thời điểm khảo sát tài nguyên mây ở Tây Nguyên, nhóm nghiên cứu đã sử dụngrada ở Tam Kỳ (Quảng Nam) để khảo sát nên kết quả sẽ hạn chế vì vùng Tây Nguyênrất rộng lớn.
Nhóm nghiên cứu cũng khẳng định,đề tài mới sẽ phủ nhận lại những gì mà đề tài cũ thực hiện. Việc kế thừa nhữngkết quả nghiên cứu cũ được thể hiện ở chỗ các số liệu về điều kiện khí tượngthủy văn, điều kiện tự nhiên khu vực Tây Nguyên sẽ được sử dụng và cập nhậtthêm.
Việc giải thích nghe cũng có vẻsuôi tai và lời hứa năm 2010 mưa nhân tạo sẽ được ứng dụng phục vụ phát triểnkinh tế xã hội vùng đồng bằng Bắc Bộ đã được viết trong lộ trình dự án. Thếnhưng, cũng giống như số phận đề tài nghiên cứu ban đầu, đề tài thử nghiệm mưanhân tạo ở đồng bằng Bắc Bộ cũng không hiểu vì lý do gì mà đã không được áp dụngdù có nghiệm thu.
|
Theo Bee