“Nếu học tập kinh nghiệm thuhút đầu tư nước ngoài thì có lẽ chúng tôi phải là những người sang Việt Nam họchỏi”, một quan chức Bộ Kinh tế Hàn Quốc đã khiêm tốn phát biểu như vậy, khi đoàncông tác của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) có chuyến côngtác tới quốc gia này để khảo sát, tìm hiểu về kinh nghiệm đối với lĩnh vực trêntrong tháng 10 vừa qua.
Tuy nhiên, từ kết quả khảo sát của đoàn công tác này, tại hội nghị “Đầu tư nướcngoài và phát triển kinh tế tư nhân: Kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Đài Loan” doCIEM tổ chức ngày 2/11, ông Phan Đức Hiếu, Phó ban Môi trường kinh doanh và Nănglực cạnh tranh của CIEM đã nhìn nhận, nếu muốn thành công và đạt hiệu quả cao,thì dường như Việt Nam phải thay đổi căn bản từ cơ chế chính sách, thủ tục,trình tự đến mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Khác biệt đáng lưu ý
Theo ông Hiếu, chỉ vẻn vẹn hai tuần ở nước bạn, đoàn công tác của CIEM đã thunạp được nhiều kinh nghiệm, mà theo họ là khá hữu ích cho cơ quan chức năng củaViệt Nam trong việc hoạch định chính sách liên quan đến FDI, cũng như quản lýcác doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này.
Điểm khác biệt đầu tiên giữa Hàn Quốc hay Đài Loan so với Việt Nam là họ khôngcó khái niệm “dự án đầu tư nước ngoài”. Cả Hàn Quốc, Đài Loan đều có chung cáchtiếp cận FDI dưới hình thức “doanh nghiệp”, nghĩa là họ xem đầu tư nước ngoài làsở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong công ty nội địa, hoặc là các khoản vaynước ngoài hay đóng góp của nhà đầu tư nước ngoài vào tổ chức phi lợi nhuận.
Do đó, Hàn Quốc, Đài Loan chỉ chấp nhận nhà đầu tư nước ngoài tham gia sở hữutheo tỷ lệ phần trăm trong doanh nghiệp trong nước, hoàn toàn không có khái niệmdoanh nghiệp đầu tư nước ngoài thuần túy.
Ngoài ra, họ cũng không phân biệt đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, mà chỉ căn cứvào tỷ lệ góp vốn hay mua cổ phần...
Tiêu chí nhận biết hoạt động đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc và Đài Loan cũngkhác biệt rất rõ với Việt Nam. Trong khi chúng ta không đưa ra tiêu chí về quymô của hoạt động đầu tư nước ngoài, thì tại Hàn Quốc và Đài Loan bắt buộc phảicó quy mô nhất định.
Chẳng hạn như ở Hàn Quốc, doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia góp vốn thì tốithiểu phải có từ 50 triệu Won trở lên hoặc phải sở hữu trên 10% vốn điều lệ, cổphần thì mới được xem là hoạt động đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, trong khi ở Việt Nam đến nay vẫn chưa phân định rõ khái niệm “nhà đầutư nước ngoài” và “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, thì ở Hàn Quốc và ĐàiLoan, hai khái niệm này là độc lập.
![]() |
| Tiêu chí nhận biết hoạt động đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc và Đài Loan khác biệt rất rõ với Việt Nam |
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng CIEM, điểm khác biệt lớnnhất và cũng là điểm mà Việt Nam cần đặc biệt lưu ý, đó là trình tự và điều kiệnđể được chính thức cấp phép, công nhận một doanh nghiệp là doanh nghiệp đầu tưnước ngoài.
Cụ thể, tại Hàn Quốc, để chấp thuận cho một doanh nghiệp nước ngoài vào hoạtđộng, ngay sau khi có thông báo thì bắt buộc doanh nghiệp đó phải chuyển vốn vàoHàn Quốc, khi đó mới được đăng ký thành lập công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân (nộiđịa).
Và chỉ sau khi doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền vào công ty trên hoặc thanhtoán đầy đủ tiền mua cổ phần, góp vốn thì mới được cơ quan thẩm quyền cho phépđăng ký công ty có vốn nước ngoài. Quan điểm của Hàn Quốc là tiền chưa vào trongnước, thì chưa coi là đầu tư nước ngoài.
Điều này cũng đồng nghĩa, chỉ khi doanh nghiệp nước ngoài chính thức chuyển tiềnvào trong nước thì khi đó mới hoàn thành thủ tục đầu tư.
Trong khi đó, ở Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ cần hoàn tấtmột số thủ tục bắt buộc theo pháp luật Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là sốvốn đăng ký vào các dự án, là coi như đã trở thành một doanh nghiệp đầu tư nướcngoài thực sự.
Do đó, ở Việt Nam mới hình thành nên những khái niệm là vốn đăng ký, vốn thựchiện và thậm chí là vốn điều lệ...
Theo ông Hiếu, điều đáng nói ở đây là chúng ta lại luôn mang con số vốn đăng ký(hơn 70 tỷ USD năm 2008) báo cáo với quốc tế, trong khi vốn thực hiện lại ít hơnrất nhiều. Và rồi, việc giải ngân được bao nhiêu, nguồn vốn giải ngân từ đâu rathì không cơ quan nào theo sát được.
“Ở Hàn Quốc, việc thu hút được 30 - 40 tỷ USD vốn FDI đã là quá lớn. Một dự áncó vốn FDI khoảng 500 triệu USD đã được xếp vào hàng đại dự án. Trong khi ở ViệtNam, chuyện dự án FDI có vốn... 5 - 7 tỷ USD, thậm chí trên 10 tỷ USD cũng khôngphải quá xa lạ với nhiều cơ quan quản lý, thậm chí là người dân”, ông Cung nói.
Quan trọng là ở tư duy
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Hàn Quốc và Đài Loan cũng tách biệt rõ hai bộ phậnhoạch định chính sách đầu tư nước ngoài và bộ phận quản lý đầu tư nước ngoài,khác với tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” như ở Việt Nam.
Do đó, cơ quan chịu trách nhiệm về thu hút đầu tư nước ngoài của họ chỉ chuyênđi thu hút, không tham gia vào làm chính sách thu hút. Cơ quan này tham gia trựctiếp với các hoạt động của doanh nghiệp, và họ hiểu rõ doanh nghiệp cần gì.
Ngoài ra, mục tiêu thu hút đầu tư FDI của Hàn Quốc thể hiện rõ là phát triểncông nghệ cao và tăng khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế, do đó họ chỉ có ưuđãi ngành, chứ không có ưu đãi vùng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Đốitượng ưu đãi cũng rất hẹp, không tràn lan như ở Việt Nam. Họ cũng không cho phépphân quyền cấp phép như Việt Nam.
Thậm chí, ở Hàn Quốc và Đài Loan, cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài đưa ra điềukiện là sau 3 năm, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tạo ra sảnphẩm có giá trị gia tăng đạt trên 30% với những sản phẩm có giá trị. Hay các khucông nghệ cao thì chỉ dành cho doanh nghiệp nội địa, doanh nghiệp có vốn nướcngoài tuyệt đối không được tham gia khu công nghệ cao (mục tiêu là cho doanhnghiệp nội tạo thế chủ động về công nghệ và sản phẩm làm ra phải phục vụ ngườidân bản địa)...
Tuy nhiên, phản biện với những vấn đề được cho là “kinh nghiệm” tốt cho Việt Namtrong thu hút FDI do CIEM đưa ra sau chuyến khảo sát tại Hàn Quốc và Đài Loan,một số đại biểu cũng cho rằng, đặc thù của Việt Nam khác với Hàn Quốc và ĐàiLoan, nên không phải cái gì họ thực hiện cũng phù hợp và tốt cho Việt Nam.
Chẳng hạn như chúng ta chủ trương phát triển toàn diện, bền vững, đồng đều giữacác vùng miền, ngành nghề thì không thể không ưu đãi mở rộng và cho nhiều lĩnhvực hay phải chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa...
Thế nhưng, theo TS. Nguyễn Đình Cung, quá trình chuyển đổi kinh tế của các nướcĐông Á về cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau về thời gian, nhanh hay chậm.
“Do đó, nếu muốn thay đổi thì nhất thiết phải thay đổi từ tư duy, đó là điềumang tính cốt lõi và quyết định. Chúng ta không nên ngồi chờ người khác mang đếncho mình một sự thay đổi hoàn hảo”, ông Cung khuyến nghị.
Theo Bảo Anh
VnEconomy

