Thủ tướng vừa có chỉ đạo Ngânhàng Nhà nước nghiên cứu để có chính sách, cơ chế phù hợp cho phép các ngân hàngthương mại có thể rút nhanh tiền ra khỏi lưu thông để giảm bớt áp lực tăng giádịp cuối năm.

Ngày 11/10, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 1875/CT-TTg về việc tăng cườngthực hiện các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường những tháng cuối năm 2010.

Trong chỉ thị trên, Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điềuhành để từng bước giảm lãi suất tín dụng. Mặt khác, Thủ tướng cũng yêu cầu cơquan này “nghiên cứu để có chính sách, cơ chế phù hợp cho phép các ngân hàngthương mại có thể rút nhanh tiền ra khỏi lưu thông để giảm bớt áp lực tăng giá,nhất là vào dịp cuối năm khi khối lượng thanh toán các công trình dự án đượcthực hiện với mật độ cao và dịp lễ, tết khi lượng tiền thưởng, tiền lương đượcchi trả với khối lượng lớn”.

Phản ứng từ giới đầu tư phổ biến trên các diễn đàn mấy hôm nay là sự lo ngại vềkhả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ hút nhanh tiền trong lưu thông về, thắt chặt tiềntệ trong thời gian tới để góp phần kiềm chế lạm phát. Điều này dường như lại mâuthuẫn với định hướng tiếp tục giảm lãi suất.

“Chưa thể nói đến giải pháp cụthể”

Về chỉ thị trên, một lãnh đạo của Ngân hàng Nhà nước cho rằng cần được đặt trongbối cảnh tổng thể của nền kinh tế hiện nay và thời gian tới, gắn với việc thựchiện các kế hoạch năm của chính sách tiền tệ.

Theo vị lãnh đạo này, mục tiêu mà Thủ tướng Chính phủ hướng đến là chính sáchtiền tệ góp phần kiềm chế khả năng tăng cao của lạm phát những tháng cuối năm.Nhưng trước hết cần lưu ý rằng, định hướng đó đặt ra sau khi nguồn vốn giải ngântừ ngân sách đã tăng mạnh sau 9 tháng đầu năm.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khối lượng thực hiện vốn đầu tư từ ngânsách Nhà nước 9 tháng đầu năm 2010 ước đạt trên 106,12 nghìn tỷ đồng, bằng 82,7%kế hoạch năm. Áp lực từ vốn giải ngân trong thời gian tới theo đó sẽ không cònlớn.

Trong khi đó, vị lãnh đạo của Ngân hàng Nhà nước cho rằng những kết quả cơ bảntrong điều hành chính sách tiền tệ từ đầu năm đến nay là phù hợp với định hướngđưa ra từ đầu năm. Cụ thể, số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đếnngày 16/9/2010, so với cuối năm trước, tổng phương tiện thanh toán tăng 18,5%,vốn huy động tăng 21,5%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 17,81%; phù hợp vớiđịnh hướng đảm bảo tổng phương tiện thanh toán và tín dụng cả năm 2010 tăngkhoảng 20% - 25%.

Mặt khác, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là một thông điệp đối với nhà điềuhành chính sách chủ động ứng phó trước những khả năng có thể xảy ra. Ở đây, đólà khả năng khối lượng tiền thanh toán tập trung khối lượng lớn vào cuối năm cóthể gây áp lực đến lạm phát.

Rút tiền nhanh khỏi lưu thông: “Hãy xem là bình thường”
Có thể xem chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là một thông điệp đối với nhà điều hành chính sách chủ động ứng phó trước những khả năng có thể xảy ra

Chính ở yếu tố “khả năng” và “nghiên cứu” nên lúc này chưa thể nói trước Ngânhàng Nhà nước sẽ triển khai hay không, nếu triển khai thì đưa ra cơ chế đối vớicác ngân hàng thương mại để rút tiền ra khỏi lưu thông như thế nào.

“Hãy xem là bình thường”

Ngay sau chỉ thị của Thủ tướng được công bố, trong những cuộc bàn luận của giớiđầu tư, cũng như một số ý kiến phản hồi vềchúng tôi, cụm từ “có thể rút nhanhtiền ra khỏi lưu thông” trở nên nhạy cảm, đi cùng với lo ngại thắt chặt tiền tệtrong thời gian tới.

Tham vấn ý kiến của một số chuyên gia về nội dung chỉ thị trên,chúng tôi nhậnđược những quan điểm khác nhau.

Phản ứng chung đầu tiên là nhận định: nếu Ngân hàng Nhà nước đưa ra các biệnpháp để các ngân hàng thương mại rút nhanh tiền trong lưu thông về, thắt chặttiền tệ thì có thể mâu thuẫn với định hướng tiếp tục giảm lãi suất. Hay theocách nói của một chuyên gia: “Tay trái đập tay phải”, và rất khó để nhà điềuhành mua được một món ăn vừa ngon, vừa bổ lại vừa rẻ.

Giả thiết đặt ra, nếu phải hút tiền về để chống lạm phát, một giải pháp kinhđiển thường thấy là tăng dự trữ bắt buộc. Điều này theo được các ý kiến tham vấncho là khó khả thi, vì liên quan đến chi phí vốn của các nhà băng và điều đó sẽđược đẩy đến các đầu mối tiếp cận vốn. Thay vào đó, trong giả thiết này, cácchuyên gia nghiêng về giải pháp Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hành giấy tờ có giávới lãi suất, kỳ hạn phù hợp.

Thận trọng hơn, một chuyên gia phân tích chứng khoán cho rằng, để định hình rõnét các khả năng có lẽ phải chờ những dữ liệu vĩ mô cụ thể của tháng 10 này, đặcbiệt là mức tăng của lạm phát với yếu tố bất thường lũ lụt ở miền Trung vừa xẩyra… Ông cũng lưu ý, câu chuyện ở đây còn phụ thuộc vào thực tế; nếu khó khăn vàáp lực Chính phủ lường tính xẩy ra còn phải xem việc “rút tiền nhanh ra khỏi lưuthông” như thế nào.

Chuyên gia này cũng nhấn mạnh, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao thì Chính phủ cũngnhư Ngân hàng Nhà nước sẽ ưu tiên mục tiêu kiềm chế, thay vì tập trung hạ lãisuất. “Bởi hạ lãi suất là câu cửa miệng suốt thời gian qua, nhưng thực tế là rấtkhó khăn”, chuyên gia này nói.

Trong giả thiết Ngân hàng Nhà nước đưa ra cơ chế để các ngân hàng thương mại rútnhanh tiền ra khỏi lưu thông, một số ý kiến cho rằng cũng cần lưu ý cái giá phảitrả. Đó là nguồn tiền sẽ khan bớt và lãi suất sẽ tăng, hoạt động sản xuất kinhdoanh của các doanh nghiệp sẽ thêm khó khăn.

Ở một quan điểm khác, đọc kỹ toàn văn chỉ thị của Thủ tướng, một chuyên gia chorằng vấn đề ở đây là bình thường, có chăng là cụm từ “có thể rút nhanh tiền rakhỏi lưu thông” khá nhạy cảm.

Sự “bình thường” được lý giải ở nguyên do: nhà điều hành đưa ra những tình huốngđể chủ động chính sách, để phản ứng nhanh và linh hoạt, nhất là với thực tế lạmphát thường tăng cao vào cuối năm; mặt khác, việc rút tiền nhanh ra khỏi lưuthông đó cũng chỉ mang tính thời điểm, nếu áp lực xẩy ra.

“Với lạm phát, nó có cả quá trình. Nếu xét về cung tiền, tôi cho rằng, cũng phảithấy là không phải lúc nào lạm phát cao cũng do cung tiền. Không phải cứ cungtiền là gia tăng lạm phát. Ở đây nó có hai yếu tố, bên trong và bên ngoài. Nhữngnăm gần đây, khi nền kinh tế nước ta mở cửa và hội nhập sâu, tôi nhận thấy yếutố bên ngoài tác động đến lạm phát mạnh hơn”, chuyên gia này phân tích.

Thực tế mà ông đưa ra là từ đầu năm đến nay, đi cùng với sự hồi phục dần củakinh tế thế giới là giá hàng hóa nhập khẩu tăng trở lại; giá nhiều nguyên liệu,thiết bị, hàng tiêu dùng nhập khẩu… đã tăng mạnh tác động đến giá cả tiêu dùngtrong nước. “Đó cũng là một chứng cớ ngoại phạm của yếu tố cung tiền đối với lạmphát cần xét tới lúc này”, ông nhấn mạnh.

Trường hợp từ nay đến cuối năm nếu Ngân hàng Nhà nước phải đưa ra các biện phápliên quan, dù như thế nào, thì mục đích cuối cùng cũng là góp phần để tình hìnhchung tốt hơn mà thôi.

Theo Minh Đức
VnEconomy