Khi mặt bằng lãi suất ngoại tệ ở Việt Nam cao, cao hơn lãi suấtUSD trên thị trường quốc tế, dòng vốn vay, ủy thác đầu tư (carrytrade) chảy vào. Cái mà dòng vốn này tìm kiếm là lợi nhuận. Sựchu chuyển của nó từ vào đến ra khá rõ ràng.

Ở lượt đi (vào) đầu tiên tiền được chuyển vào tài khoản vãnglai mở ở một ngân hàng có chức năng kinh doanh ngoại tệ. Bướctiếp theo chủ sở hữu số tiền đó làm thủ tục góp vốn đầu tưvào những công ty, địa chỉ đã chọn; mua cổ phần hoặc tráiphiếu; hoặc cho vay...

Lúc này ngoại tệ sẽ chuyển từ tài khoản vãng lai sang tàikhoản vốn, sau đó được bán cho ngân hàng lấy tiền đồng và tiềnđồng được chuyển vào tài khoản tiền đồng, giải ngân cho các mụcđích đã làm thủ tục ở trên.

Ở lượt về (ra) cũng chủ sở hữu nói trên bán cổ phiếu, tráiphiếu, thu hồi vốn cho vay, mua lại USD, chuyển tiền vào tài khoảnvãng lai rồi chuyển ra ngoài. Tỷ giá và lãi suất đồng nội tệ làhai yếu tố then chốt mà các tổ chức carry trade phải tính toán đểđạt lợi nhuận tối đa.

Thí dụ vào tháng 2/2010, một tổ chức chuyển vào 10 triệu USD đểcho vay, họ đổi ra được 191 tỉ đồng. Khi ấy lãi suất USD trên thếgiới khoảng 3%, nhưng họ có thể cho vay ở Việt Nam với lãi suấttiền đồng 12%/năm, tức 6% cho 6 tháng, tương đương lãi 11,46 tỉ đồng.Vào thời điểm thu hồi vốn vay, tỷ giá đã tăng lên 19.500 đồng/USD,lúc này cả vốn lẫn lãi họ có 10,38 triệu USD. Trả gốc và lãivốn vay, họ vẫn lời.

Trong trường hợp lãi suất tiền đồng giảm xuống và mức tăng giácủa USD so với tiền đồng mạnh hơn, lợi nhuận của họ giảm, họ sẽrút vốn ra. Đối với trường hợp mua cổ phiếu, trái phiếu, họ cònchịu rủi ro giá cổ phiếu, trái phiếu giảm và nộp thuế đầu tưchứng khoán.

Con sóng tăng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ và vàng không phải chỉ đang lăn tăn trên mặt nước

Về nguyên tắc, khi bán ngoại tệ cho ngân hàng và lấy tiền đồng,dòng vốn carry trade có thể tạo điều kiện cho Việt Nam tăng dự trữngoại hối. Nó là khoản tín dụng tạm thời giúp quốc gia cân bằngcán cân thanh toán ngắn hạn. Thời gian gần đây, theo Ủy ban Giámsát tài chính quốc gia, khoảng 2 tỉ USD carry trade đã vào Việt Namvà cho đến hiện tại, nó chưa bị rút ra do lãi suất tiền đồng vẫncao. Còn những khoản đầu tư vào cổ phiếu chưa mang lại lợi nhuậnbởi VN-Index đã giảm quá sâu.

Tuy nhiên từ giữa tháng 8/2010, các ngân hàng bắt đầu tăng lãisuất tiết kiệm ngoại tệ, mức tăng phổ biến từ 0,3-0,5%/năm tùy kỳhạn.

Suy luận đầu tiên: các ngân hàng đang thiếu ngoại tệ cho vay; tăngtrưởng vốn huy động ngoại tệ chậm lại; thực hiện quyết định mớiđây của Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng không đượccho vay ngoại tệ vượt quá tổng vốn huy động ngoại tệ. Câu chuyệntưởng dừng lại ở đấy, nhưng không ngờ nó tiến xa hơn.

Tuần trước, một số ngân hàng bất ngờ tăng lãi suất huy độngvàng. Lãi suất huy động vàng kỳ hạn 3 tháng đang ở mức 0,5%/nămđược đẩy lên 0,8%/năm. Con số chênh lệch 0,3 điểm phần trăm/năm thoạtnhìn nhỏ, nhưng lại tăng tới 60% so với mức cũ. Liệu có phải một sốngân hàng đã tìm được đầu ra cho vàng huy động nên tăng lãi suấtđầu vào? Ai là người vay vàng khi mà giá vàng đang ở đỉnh cao,vượt 29 triệu đồng/lượng?

Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy cho vay vàng không tăng, trái lạicòn giảm. Thực tế là không ít ngân hàng đang nỗ lực tăng tổng vốnhuy động trong đó có vàng (vốn huy động bằng vàng được tính chuyểnra tiền đồng. Giá vàng càng cao, lượng vốn huy động bằng vàngcàng lớn - NV). Muốn thu hút người dân gửi vàng vào ngân hàng, thìphải có lãi suất tiết kiệm thật cao, và mức tăng lãi suất huyđộng vàng đột biến 60% đã được tung ra!

Con sóng tăng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ và vàng không phải chỉ đang lăn tăn trên mặt nước. Nếu không sớm rà soát và đề xuất biện pháp xử lý, tháo gỡ Thông tư 13 như chỉ đạo của Chính phủ, sóng nhỏ có thể chuyển thành sóng ngầm rất nhanh.

Tại sao các ngân hàng phải cố gắng tăng tổng vốn huy động bằngmọi cách như vậy: từ giữ nguyên lãi suất tiết kiệm tiền đồng,đến tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ và vàng? Vì thời hạn thựchiện Thông tư 13 đang đến gần. Khoản 1.1 điều 18 của thông tư quyđịnh rõ tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động của cácngân hàng tối đa chỉ được 80%. Nghĩa là để cho vay 100 đồng, cácngân hàng phải huy động được tối thiểu 125 đồng.

Một ngân hàng tính toán tổng vốn huy động của họ phải tăng thêm14.000 tỉ đồng để không phải giảm dư nợ. Huy động sao nổi con sốấy trong vòng ba tuần nữa? Tiền cho vay ra đã giải ngân, không thểđòi hỏi người vay trả trước hạn.

Để đảm bảo tỷ lệ trên mà khôngthể hạ tổng dư nợ xuống, thì ngân hàng chỉ còn cách tăng thậtnhanh tổng vốn huy động. Lãi suất huy động tiền đồng không thể tăngvì đã có mức thỏa thuận chung trong khuôn khổ Hiệp hội Ngân hàng,nhưng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ và vàng thì không có hạn chếnào. Thế thì tăng lãi suất tiết kiệm USD và vàng là con đườnghợp lý!

Điều đáng nói là ở chỗ 25 đồng (để có thể cho vay 100 đồng)đưa vào dự trữ đáp ứng quy định trên không phát sinh do nhu cầu tăngtrưởng tín dụng, cũng không giúp giảm lãi suất cho vay như chỉ đạocủa Chính phủ. Nó đơn thuần là để dự trữ và nằm “chết” mộtchỗ. Nhưng nó lại gây áp lực lên giá vàng và ngoại tệ. Lãi suấttiết kiệm USD tăng, lãi suất tiền đồng giảm xuống, mức chênh lệchcàng thấp thì khả năng người dân chuyển từ tiết kiệm tiền đồngsang tiết kiệm ngoại tệ càng cao.

Điều này vô hình chung đẩy cầu ngoại tệ tăng. Còn đối vớivàng, mấy tháng qua, người gửi vàng đã rút ra đem bán, đổi sanggiữ tiền đồng vì lãi suất huy động vàng quá thấp. Nay lãi suấthuy động vàng tăng trở lại, họ có thể lại chuyển sang giữ vàng.Còn nhớ cơn “sốt” vàng và hệ lụy của nó năm ngoái chưa xa. Và“lỗ hổng” vàng đã bắt nguồn từ việc vàng ngân hàng huy độngđược, nhưng không có đầu ra...

Con sóng tăng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ và vàng không phảichỉ đang lăn tăn trên mặt nước. Nếu không sớm rà soát và đề xuấtbiện pháp xử lý, tháo gỡ Thông tư 13 như chỉ đạo của Chính phủ,sóng nhỏ có thể chuyển thành sóng ngầm rất nhanh.

Theo Hải Lý
TBKTSG