Dự thảo Tờ trình Chính phủ “Dự án Luật sửa đổi,bổ sung một số Điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN)” đã hé lộ nhữngcăn cứ chủ yếu để Bộ Tài chính đưa ra mức giảm trừ gia cảnh mới. Tuy nhiên,qua thực tế phân tích vẫn còn nhiều điểm thiếu thuyết phục.

 
Căn cứ cho mức giảm trừ mới

Dự thảo Tờ trình của Bộ Tài chính chỉ rõ, đề xuất sửa đổi mức giảm trừ giacảnh được tính toán, cân nhắc qua tham khảo các thông tin sau:
 
(i) Theo tốc độ tăng trưởng GDP, với tỷ lệ tăngtrưởng GDP những năm qua 2009 đến 2011 và dự kiến bình quân 5 năm tới (2011– 2015) vào khoảng 6,5%-7% thì mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4triệu đồng/tháng tính theo tốc độ tăng trưởng GDP đến năm 2014 sẽ vào khoảng5,85 triệu đồng/tháng.
 
(ii) So với biến động về chỉ số giá (CPI) tronggiai đoạn từ năm 2009 – 2011 và dự kiến các năm sau CPI ở mức dưới 2 con số,thì mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng tính theotrượt giá đến năm 2014 khoảng 6,5 triệu đồng/tháng.
 
Sửa luật thuế TNCN: Nhiều điểm thiếu thuyết phục
Với những gì đã sửa đổi, liệu thuế thu nhập cá nhân đã phù hợp với điều kiện mới?     Ảnh: KT
 
(iii) Thông tin tại Đề án Cải cách chính sáchtiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn2013-2020 do Bộ Nội vụ chủ trì soạn thảo có đưa ra một số phương án về mứctiền lương tối thiểu, căn cứ vào khả năng cân đối của NSNN thì mức tiềnlương tối thiểu cao nhất vào năm 2014 là khoảng 1.650.000 đồng/tháng.
 
(iv) Kết quả điều tra xã hội học của Tổng cụcThống kê về thu nhập và mức sống dân cư năm 2010, cụ thể: Thu nhập bình quânđầu người năm 2010 tính chung cả nước theo giá hiện hành đạt1.387.000đồng/người/ tháng, trong đó, nhóm hộ giàu nhất đạt mức bình quân3.411.000 đồng/tháng/người. Giả định tính toán với tốc độ tăng thu nhập bìnhquân mỗi năm khoảng 20% thì đến năm 2014 mức thu nhập bình quân sẽ vàokhoảng 2.876.000 đồng/ tháng/người, thu nhập bình quân của nhóm thu nhập caonhất có thể đạt khoảng 7.073.000 đồng/tháng/người.

Ngoài ra, Tổ biên tập còn cho biết đã tham khảo kinh nghiệm cải cách thuếTNCN của một số nước trên thế giới. Theo đó “hầu như không có nước nào quyđịnh mức giảm trừ gia cảnh dựa theo một chỉ tiêu, chỉ số cố định mà thườngcăn cứ vào nhiều yếu tố như yêu cầu động viên vào ngân sách, chế độ an sinhxã hội, khả năng, thu nhập và mức sống dân cư để xác định mức giảm trừ hoặcđánh thuế từ đồng thu nhập đầu tiên”.
 
Thiếu thuyết phục

Căn cứ vào những thông số trên, có thể thấy mức giảm trừ gia cảnh 6 triệuđồng/tháng cho bản thân người nộp thuế, đã được ban soạn thảo lựa chọn ở mứctối thiểu, sát với tính toán theo tốc độ tăng GDP đến năm 2014. Mức giảm trừnày được đánh giá là sẽ “không gây khó khăn cho đời sống của người nộpthuế”.

Tuy nhiên, có những căn cứ cho thấy nhận định này khó thuyết phục. Ngaytrong tờ trình, tại mục I.2 “Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật thuế”,cơ quan soạn thảo chỉ ra, với mức giảm trừ 4 triệu đồng/tháng: “Thực tế từnăm 2009 đến nay, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, suy thoái toàncầu dẫn đến giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao (chỉ số CPI năm 2009: 6,52%;năm 2010: 11,75%; 2011: 18.13%) làm ảnh hưởng đến đời sống của người nộpthuế”.
 
Như vậy, có thể hiểu Ban soạn thảo đánh giá mứcgiảm trừ gia cảnh 4 triệu đồng/tháng đã không còn phù hợp. Thế nhưng, mức“không phù hợp” 4 triệu đồng/tháng này lại đang cao gấp 4,8 lần mức lươngtối thiểu (830.000 đồng/tháng), trong khi đó mức giảm trừ 6 triệu đồng/thángdự kiến áp dụng cho năm 2014 chỉ cao gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu dựkiến. Nếu so sánh với mức lương tối thiểu năm 2009, thời điểm Luật thuế TNCNcó hiệu lực thi hành thì mức giảm còn lớn hơn nữa. Bởi, năm 2009, mức giảmtrừ gia cảnh 4 triệu đồng/tháng, cao gấp 6,15 lần mức lương tối thiểu là650.000 đồng/tháng. Chưa kể, mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng nếu được thôngqua sẽ không chỉ áp dụng cho riêng một năm 2014, mà có thể kéo dài trong cácnăm tiếp sau đó, tức là người nộp thuế sẽ ngày càng khó khăn hơn cùng vớităng trưởng và lạm phát. 

Ban soạn thảo cũng cho rằng, “mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng tương đương1,7 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2014 (cao nhất so với các nước trongkhu vực có điều kiện tương đồng và khá hơn nước ta)”. Các nước mà Ban soạnthảo đã tham khảo số liệu về tỷ lệ so sánh giữa mức giảm trừ gia cảnh vớiGDP bình quân đầu người của Malaysia là 0,312 lần mức GDP bình quân đầungười; Thái Lan (0,526); Indonesia (0,527) và Trung Quốc (1,23).
 
Tuy nhiên, sẽ thuyết phục hơn nếu Ban soạn thảochỉ ra những con số cụ thể GDP bình quân đầu người của các nước này là baonhiêu và hiện gấp bao nhiêu lần GDP bình quân đầu người của Việt Nam thì sẽthuyết phục hơn. Chẳng hạn, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) năm2008, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 1.042 USD thìcủa Malaysia là 8.118 USD; Thái Lan là 4.108 USD; Indonesia là 2.238 USD;Trung Quốc là 3.403 USD…

Việc sửa đổi mức giảm trừ còn nhiều điểm chưa thoả đáng, thì có những điểmcăn bản hơn cần sửa đổi lại chưa được Ban soạn thảo đề cập đến. Ngay thờiđiểm Luật Thuế TNCN có hiệu lực (tháng 1/2009), các chuyên gia kinh tế đãlên tiếng về những bất hợp lý ở mức thuế suất ở những nấc thang đầu quá cao,sẽ gây khó khăn cho những người chỉ có thu nhập từ lương. Ngoài ra, biểuthuế luỹ tiến từng phần quá dày, với 7 bậc sẽ gia tăng gánh nặng cho nhữngngười có thu nhập chịu thuế ở những nấc thang đầu, hơn là khuyến khích ngườidân nộp thuế…

Với những gì đã được “sửa”, liệu sắc thuế này đã phù hợp với điều kiện mới?

Theo GiadinhNet