Hơn một năm qua, giai đoạnđược xem là khó khăn của ngành ngân hàng trong bối cảnh khủng hoảng tài chínhtoàn cầu, những vấn đề nổi cộm của ngành ngân hàng trở thành thời sự đáng chú ýnhư việc khó huy động được tiền gửi, chuyện ngân hàng khó bán Đô la Mỹ cho kháchhàng...
Đây đều là những chuyện mang tínhthời vụ hàng năm của ngành ngân hàng, nhưng lại trở nên nóng và thời sự hơn vìtác động lớn của nó trong thời điểm nền kinh tế “khát vốn”.
Mặc dù hệ thống vẫn được Ngân hàng Nhà nước cố gắng duy trì ở mức “ổn định”,thấp thoáng đâu đó người ta thấy được một số ngân hàng có dấu hiệu chấp nhậnnhiều rủi ro hơn mức cho phép. Một điểm đáng chú ý là hình như điều này xuấtphát từ cách tiếp cận “đảm bảo an toàn hệ thống” trong điều hành chính sách.
Chính sách “đảm bảo an toàn hệ thống” kiểu Việt Nam: Một cỡ cho tất cả
Có một điều dễ thấy trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đó là việc Ngân hàng Nhànước luôn cố gắng duy trì ổn định các biến số lãi suất và tỷ giá, sẵn sàng cấmcác hoạt động kinh doanh có vẻ có rủi ro. Ví dụ gần đây là chuyện Thống đốcNguyễn Văn Giàu cho biết đang xem xét không cho chuyển đổi vốn huy động bằngvàng sang tiền đồng vì ngại tiềm ẩn rủi ro.
Như vậy, để tránh trước việc một ngân hàng nào đó có thể vượt quá giới hạn antoàn, Ngân hàng Nhà nước xem xét “cấm” tất cả các ngân hàng làm một nghiệp vụnào đó. Đây là một cách tiếp cận “một cỡ cho tất cả”, bất chấp một ngân hàng nàođó có thật sự vượt quá giới hạn hay không.
Một thể chế kiểu “một cỡ cho tất cả” sẽ khuyến khích hiện tượng ỷ lại nghĩa làmột vài ngân hàng cứ thoải mái thực hiện hoạt động kinh doanh có rủi ro, chấpnhận nhiều rủi ro để kiếm lời, bất chấp mình có khả năng quản lý rủi ro đó haykhông.
Lý do là vì các ngân hàng này nghĩ nếu Ngân hàng Nhà nước phát hiện ranghiệp vụ này quá rủi ro ở một vài ngân hàng, thì cũng sẽ cấm cả các ngân hàngkhác làm. Vậy đâu cần ngân hàng nào phải thực hiện nghiệp vụ đó thật thận trọngvà phải áp dụng quản trị rủi ro một cách hợp lý?
Điều này tạo ra một hệ thống chấp nhận rủi ro quá mức (excessive risk-taking) ởmột số ngân hàng, nhất là các ngân hàng nhỏ có năng lực tài chính và mạng lướikinh doanh yếu. Điều đó cũng dần ảnh hưởng tâm lý các ngân hàng lớn, nhất làtrong bối cảnh kinh tế phát triển tốt thì ai cũng sẽ lạc quan về tương lai.
Thế là hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động tương tự như hệ thống giao thôngViệt Nam: người ta đôi khi chỉ nhìn người xung quanh đang làm gì, chứ không nhìnxem đèn giao thông đang xanh hay đỏ, và nếu không có cảnh sát nhiều khi... đèngì cũng chạy! Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước phải chọn cách điều hành:bắt các xe phải chạy chung một tuyến đường, cấm xe chạy nhanh hơn một tốc độnhất định, bất kể đó là xe đạp hay xe hơi!
Công bằng mà nói, việc nhiều ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức và không quảntrị rủi ro một cách đúng đắn thì ở đâu cũng có trong bối cảnh kinh tế phát triểntốt đẹp.
Bong bóng cổ phiếu công nghệ, sự phổ biến của các sản phẩm trái phiếunhiều rủi ro (junk bonds), các sản phẩm phái sinh tín dụng thứ cấp chính là biểuhiện tiêu biểu cho việc các tổ chức tài chính Anh-Mỹ đánh vào thị phần chấp nhậnrủi ro quá mức này trên thị trường tài chính trong bối cảnh kinh tế thế giớiphát triển mạnh trong những năm cuối thập niên 1990 và những năm đầu thế kỷ 21.
Cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua phần nào là kết quả của điều này. Tuy nhiên,cách tiếp cận để giải quyết hậu khủng hoảng thì có sự khác biệt.
|
Nhân viên bộ phận kinh doanh của Eximbank (Ảnh: Kinh Luân) |
ỞAnh và Mỹ, số lượng ngân hàng phá sản nhiều vìnhững ngân hàng không đảm bảo chất lượng, chấpnhận quá nhiều rủi ro và thanh khoản thật sự cóvấn đề thì phải bị phá sản hoặc bị mua lại.Nghĩa là ở các nước này, người ta xử lý hệ thốngngân hàng giống như kiểu phân luồng xe, và nhữngngân hàng không còn đảm bảo an toàn lưu hành sẽ“bị loại ra khỏi đường đua”.
Cách tiếp cận đó đương nhiên tốn kém cho nềnkinh tế. Có người nói nếu Mỹ chấp nhận cứuLehman Brothers ngay từ đầu, có thể khủng hoảngkhông tệ như vậy. Nhưng nếu Lehman Brothers đượccứu có nghĩa những quả bong bóng nhà đất vànhững sản phẩm phái sinh tệ hại của ngành tàichính Mỹ vẫn tồn tại. Những tổ chức tài chínhchấp nhận quá nhiều rủi ro vẫn tồn tại. Mỹ vàAnh đã phải chấp nhận một cái giá trong khủnghoảng để phải tái cấu trúc lại ngành tài chínhvà nền kinh tế.
Ở Việt Nam, phương thức điều hành là Ngân hàngNhà nước đóng vai trò người cảnh sát giao thôngkhông cho ai chạy quá tốc độ, và chỉ xây một conđường duy nhất, áp dụng cho tất cả các ngân hàngthương mại. Cứ hễ là ngân hàng thì cứ phải đimột con đường và cùng chịu một giới hạn về tốcđộ giao thông.
Nói một cách nào đó, Ngân hàng Nhà nước phòngngừa rủi ro giúp cho cả hệ thống ngân hàng vì losợ hệ thống bất ổn. Khi áp lực khủng hoảng đếnNgân hàng Nhà nước lại phải hỗ trợ thanh khoảncho các ngân hàng thương mại gặp khó khăn. Điềunày càng làm khuếch đại tâm lý ỷ lại ở nhữngngân hàng sẵn sàng chấp nhận nhiều rủi ro hơn,trong đó một rủi ro thường thấy là rủi ro thanhkhoản.
Áp lực thanh khoản: Vì sao là chuyện thườngxuyên?
Gần đây, có thông tin là Ngân hàng Nhà nước sẽthanh tra những ngân hàng có tỷ lệ vốn huy độngtrên thị trường liên ngân hàng lớn hơn 20% tổngvốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế. Vấnđề nhiều ngân hàng lạm dụng nguồn vốn huy độngtrên thị trường liên ngân hàng không phải chờđến khủng hoảng mới xảy ra mà từ các năm 2006,2007 cũng đã có và cũng không phải là không cótrong các năm trước đó.
Hiểu một cách đơn giản, do nguồn vốn huy động ổnđịnh từ dân cư và tổ chức kinh tế của một sốngân hàng không đủ cho nhu cầu vay vốn và cácnhu cầu khác của khách hàng nên ngân hàng phảiđi vay mượn ngắn hạn “đắp đổi qua ngày”. Tronglĩnh vực quản trị rủi ro thanh khoản, điều nàycho thấy có thể tồn tại một sự chênh lệch nghiêmtrọng trong cấu trúc kỳ hạn (maturity mismatch)của các khoản vốn và tài sản ở một số ngân hàng.
Một số ngân hàng do chỉ có nguồn huy động ngắnhạn nhưng lại chấp nhận cho vay trung dài hạncho một số dự án có rủi ro, thì dĩ nhiên sẽ gặprủi ro thiếu thanh khoản tại một số thời điểm vàphải lo đi “chạy tiền” trên thị trường liên ngânhàng. Nếu các dự án cho vay của những ngân hàngnày quá rủi ro và việc trả nợ của người vay gặpvấn đề thì vấn đề thanh khoản sẽ càng nghiêmtrọng hơn.
Vấn đề này cũng không có gì lạ nhưng có một điềulà tình trạng này nếu cứ lặp đi lặp lại mãi ởmột số ngân hàng thì điều đó có nghĩa là nhữngngân hàng đó hoàn toàn không hề nhắm tới cảithiện công tác quản trị rủi ro để hoạt động nămsau an toàn hơn năm trước. Họ vẫn luôn ỷ lại vàothị trường liên ngân hàng và nhắm tới những hoạtđộng cho vay và kinh doanh nhiều rủi ro để kiếmlời, khuếch trương hoạt động, với niềm tin là“thiếu tiền thì lên vay liên ngân hàng”.
Nếu một ngân hàng nào đó gặp khó khăn thanhkhoản quá lớn thì có thể lên thị trường liênngân hàng xin vay với lãi suất cao, hoặc tìmcách lách trần lãi suất huy động để thu hút thêmhuy động từ khách hàng cá nhân và tổ chức.
Nhữngbiểu hiện này dễ nhận thấy trong suốt mấy nămqua, thông qua các cuộc chạy đua lãi suất thườngđược dẫn đầu bởi một số ngân hàng nhỏ, và thôngtin về những giai đoạn lãi suất liên ngân hàngthường xuyên căng thẳng buộc Ngân hàng Nhà nướcphải bơm vốn qua thị trường mở, điển hình nhưvào đầu năm 2010.
Nếu có một giai đoạn những ngân hàng gặp nhiềurủi ro thanh khoản này xin vay khắp nơi trên thịtrường liên ngân hàng mà không được, đẩy mặtbằng lãi suất liên ngân hàng lẫn trên thị trườnghuy động kịch trần mà vẫn không vay được thì họchỉ có thể cầu cứu Ngân hàng Nhà nước. Khôngbiết Ngân hàng Nhà nước có hỗ trợ chăng? Câu trảlời có lẽ là tùy tình huống.
Nhưng thực tế ở Việt Nam đang tồn tại một sảnphẩm hỗ trợ thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước màít nước nào có: chiết khấu trên bộ hồ sơ tíndụng. Nghĩa là đối với những ngân hàng “tệ” đếnmức không duy trì mua trái phiếu chính phủ để dựphòng trường hợp thiếu thanh khoản phải nhờ đếnhỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước qua thị trường mở,thì các ngân hàng này cũng còn cách được “cứu”thông qua tái cấp vốn trên bộ hồ sơ tín dụng.
Vậy phải chăng Ngân hàng Nhà nước đang tạo ramột niềm tin cho các ngân hàng rằng Ngân hàngNhà nước sẽ luôn đảm bảo vai trò người cho vaycuối cùng trong mọi tình huống?
Nếu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì một niềmtin cho các ngân hàng thương mại và công chúnglà Ngân hàng Nhà nước phải “đảm bảo an toàn hệthống” như thế thì các ngân hàng khác cũng nghĩtrước sau gì Ngân hàng Nhà nước cũng phải “cứu”nếu có chuyện gì xảy ra. Vì vậy, các ngân hàngan toàn khác cũng sẵn sàng cho các ngân hàngchấp nhận rủi ro nhiều vay trên thị trường liênngân hàng.
Vậy là ngân hàng nhiều rủi ro chưacần cầu cứu Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàngkhác cũng đã chấp nhận cho vay cứu giúp với lãisuất cao để kiếm lời.
Điều này càng đúng trong bối cảnh kinh tế pháttriển tốt vì rồi mọi sự cũng ổn thỏa cho các bên.Nhưng điều đó sẽ khiến hệ thống ngân hàng đi vàokhủng hoảng với một số lượng không nhỏ các ngânhàng có thói quen chấp nhận rủi ro quá khả năngcủa mình và các ngân hàng an toàn cũng có xuhướng mạo hiểm với một tâm lý ỷ lại vào việcNgân hàng Nhà nước sẽ không muốn để hệ thống bịbất ổn.
Cách mà Ngân hàng Nhà nước quy định trần lãisuất, rồi cố gắng “ổn định tỷ giá” trong bốicảnh khủng hoảng và nhiều cú sốc từ bên ngoàicàng khiến người ta tin rằng không dễ có chuyệnNgân hàng Nhà nước để tình hình bê bối tài chínhở một ngân hàng làm ảnh hưởng đến toàn hệ thống.
Và do đó, một số ngân hàng sẽ không cần quan tâmđến việc quản trị rủi ro thanh khoản sao cho nămsau tốt hơn năm trước. Vì vậy, nếu vấn đề căngthẳng thanh khoản hàng năm là chuyện thườngxuyên ở một số ngân hàng thì cũng không có gì làlạ.
Cần một phương thức điều hành có tính chọnlọc
Cần phải làm giảm đi tâm lý ỷ lại của ngân hàngthương mại và người dân vào Ngân hàng Nhà nước.Khi người ta thật sự ý thức rằng tình hình cóthể bất ổn hơn và không còn dựa dẫm, người tamới thật sự thận trọng. Đó mới là nền tảng củaổn định thật sự.
Với hoạt động phức tạp của hệ thống ngân hàng màlỗ hổng còn có thể tồn tại như số máy ATM bị ròrỉ điện ở nhiều nơi như hiện nay, thì cách tiếpcận của Ngân hàng Nhà nước có thể là lựa chọn“ít tệ nhất”, vì trong một nhóm “vàng thau lẫnlộn”, không thể nhất thời mà phân nhóm ra đượcmột cách chính xác. Đó là chưa kể làm sao phânluồng để các ngân hàng có thể chạy đúng tuyếncũng không dễ.
Sự kiện tranh cãi liên quan đến xếp hạng tínnhiệm ngân hàng gần đây của Vietnam Credit chothấy không dễ gì nói một ngân hàng tốt hơn, antoàn hơn, quản trị đàng hoàng hơn một ngân hàngkhác một cách chung chung, chứ nói gì đến việcphân loại cụ thể là ai có khả năng thực hiệnnhững nghiệp vụ nào, chịu rủi ro đến đâu.
Áp dụng việc để tự các ngân hàng tự quản trị rủiro càng khó hơn (ngay cả cho dù có áp dụng cáctiêu chuẩn quản trị rủi ro quốc tế như Basel IIthì vẫn có nhiều không gian cho các ngân hàng tựchủ trong xác lập các tiêu chí quản trị rủi rocủa mình). Cho nên trước mắt e rằng Ngân hàngNhà nước vẫn phải chấp nhận thực hiện việc quảnlý “cào bằng” số đông và đôi khi phải chấp nhậnduy trì một vài cá thể yếu kém để giữ an toàn hệthống.
Điều này dễ khiến sự phân bổ vốn trong nền kinhtế đi vào những dự án có tính đầu cơ, rủi ro đểkiếm nhiều tiền và kết quả là những quả bongbóng giá nhà đất, giá cổ phiếu sẽ thường xuyênbùng phát, mà đáng lo hơn, rủi ro tín dụng trongnền kinh tế cũng sẽ tăng đáng kể khi những quảbong bóng này vỡ.
Với việc đánh giá rủi ro tíndụng hiện nay ở các ngân hàng còn chịu ảnh hưởngcủa sự không thống nhất giữa các phương phápđồng thời chịu ảnh hưởng chủ quan của người đánhgiá (ví dụ như đối với các xếp hạng tín dụng nộibộ).
Vì vậy, về lâu dài, có lẽ Ngân hàng Nhà nướcphải nhắm đến thay đổi cách tiếp cận chính sáchcủa mình và phải bắt đầu từ việc phân loại mộtcách hiệu quả và chi tiết cho các ngân hàng nộiđịa, từng bước tạo điều kiện để áp dụng nhữngphương thức quản lý cho phép thanh lọc hệ thống.Nếu không, hệ thống ngân hàng của Việt Nam sẽtiếp tục duy trì một trạng thái ỷ lại vào Ngânhàng Nhà nước và ngày càng sẵn sàng chấp nhậnnhiều rủi ro quá mức hơn.
Sau khủng hoảng tài chính lần này có lẽ đã đếnlúc cần phân loại những tổ chức tài chính hoạtđộng trong nền kinh tế và tái cấu trúc thực sựhệ thống ngân hàng.
Và tái cấu trúc có lẽ phảibắt đầu từ cách tiếp cận trong quản lý của Ngânhàng Nhà nước và bắt đầu từ những việc tưởngchừng đơn giản nhưng mãi vẫn chưa được thực hiệnmột cách phù hợp, ví dụ như một mức xếp hạngtoàn diện về năng lực của các ngân hàng Việt Namđể có thể tùy vào nhóm ngân hàng mà quản lý.Đồng thời, cần phải làm giảm đi tâm lý ỷ lại củangân hàng thương mại và người dân vào Ngân hàngNhà nước.
Khi người ta thật sự ý thức rằng tình hình cóthể bất ổn hơn và không còn dựa dẫm, người tamới thật sự thận trọng. Đó mới là nền tảng củaổn định thật sự. Và để thực hiện sự thay đổihướng về sự ổn định thật sự, chắc chắn phải tốnmột chi phí nhất định vì không có cái gì màkhông có giá của nó.
Theo Hồ Quốc Tuấn