Lâu nay, các nhà kinh tế trong nước thường xem tăng trưởng kinh tế đồngnghĩa với tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Điều này chỉ đúng phầnnào.

Việc tính toán chỉ tiêu GDP ở Việt Nam hoàn toàn từ phía cung, tức làcộng tất cả giá trị gia tăng của các đơn vị kinh tế là thường trú trongnước. Chẳng hạn doanh nghiệp FDI khai thác tài nguyên trong nước và toànbộ giá trị gia tăng của doanh nghiệp này được tính vào GDP, mặc dù trongđó có cả phần thặng dư của nước khác.

Niên giám của cơ quan thống kê hiện nay không chỉ công bố số liệu về GDPmà còn có cả số liệu về tổng thu nhập quốc gia (GNI - Gross NationalIncome), nhưng tiếc là hầu như không có (hoặc rất ít) người sử dụng số liệunày trong các nghiên cứu hoặc các báo cáo.

Tổng thu nhập quốc gia (GNI) = tổng sản phẩm trong nước (GDP) + thu nhậptừ sở hữu – chi trả sở hữu. Chỉ tiêu GNI phản ánh thực chất hơn cái mà mỗiquốc gia được hưởng. Có người ví von rằng tài nguyên thiên nhiên của mộtquốc gia như của cải của ông cha trong một gia đình để lại cho con cháu,nhưng vì ông cha cất rất kỹ nên chúng ta phải mời người ngoài vào để lấy hộsố của cải đấy ra và phải chia cho người ta một phần của cải.

Toàn bộ số của cải lấy được đó sau khi trừ đi một phần nhỏ chi trả choviệc mua các dụng cụ cắt khóa chẳng hạn, gia đình đó có thể đi khoe với hàngxóm, nhưng thực chất cái mà gia đình đó được hưởng chỉ là một phần trong sốtài sản của mình. Tương tự, cái phần được hưởng đối với một quốc gia cũngnhư vậy và được thể hiện trong tổng thu nhập quốc gia (GNI).

Nhìn lại số liệu 10 năm qua, từ năm 2000-2009, GDP theo giá hiện hành năm2009 đã tăng gấp 3,8 lần năm 2000 và bình quân hàng năm tăng 16%. Còn GDP đãloại trừ yếu tố giá thì tăng 1,89 lần và bình quân hàng năm tăng 7,3%. Nhưngnếu xét về tổng thu nhập quốc gia theo giá thực tế, năm 2009 so với 2000 chỉtăng 3,6 lần và nếu lấy chỉ số giảm phát GDP để loại trừ yếu tố giá của tổngthu nhập quốc gia thì mức tăng là 1,81 lần và bình quân hàng năm chỉ tăng6,8%.

Thu nhập quốc gia bình quân đầu người đang giảm
Số liệu thống kê cho thấy trong khi GDP bình quân đầu người năm 2009 tăng 1,14% so với năm 2008, thì tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người lại giảm 1,2% (Ảnh minh họa)

Phần chênh lệch giữa tổng thu nhập quốc gia và tổng thu nhập trong nướcnếu là số dương có nghĩa phía Việt Nam có thu nhập sở hữu thuần túy với nướcngoài, và âm tức là phía Việt Nam phải chi trả sở hữu cho nước ngoài nhiềuhơn phần thu được từ sở hữu với nước ngoài.

Phần chênh lệch này (niên giám thống kê gọi là thu nhập thuần túy từ nướcngoài) từ năm 2000 đến nay luôn luôn là một số âm. Nếu năm 2000 phía ViệtNam phải chi trả cho nước ngoài 6.300 tỉ đồng thì đến năm 2009 phần phải chitrả sở hữu cho nước ngoài lên đến gần 91.000 tỉ đồng, chủ yếu là lãi tiềnvay và doanh nghiệp FDI chuyển lợi nhuận về nước. Xét theo giá hiện hành,tốc độ tăng chi trả sở hữu cho bên ngoài của năm 2009 gấp khoảng 14,4 lần sovới năm 2000 (trong khi GDP chỉ tăng 3,9 lần).

Bên cạnh đó, tốc độ chi trả sở hữu ra nước ngoài tăng bình quân hàng nămkhoảng 34% (còn GDP tăng bình quân 7,3%). Nếu loại trừ yếu tố giá, hai tỷ lệtrên lần lượt là 7,2 lần và khoảng 25%. Điều này càng cho thấy bản thân chỉtiêu tốc độ tăng trưởng GDP không phản ánh chính xác thực trạng của nền kinhtế.

Một điểm nữa cũng cần lưu tâm là nếu xét từ năm 2005-2009, tốc độ tănggiá của GDP hơn 50% nhưng sự thay đổi giá USD chỉ vào khoảng 14%. Như vậy,việc tính GDP bình quân đầu người theo USD như hiện nay (lấy GDP theo giáhiện hành chia cho tỷ giá liên ngân hàng) về thực chất không thể hiện đúngmức thu nhập vì nếu đồng tiền Việt Nam mất giá nhanh hơn đồng USD thì cũngđẩy thu nhập bình quân đầu người tính theo USD cao hơn. Số liệu thống kê chothấy trong khi GDP bình quân đầu người năm 2009 tăng 1,14% so với năm 2008,thì tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người lại giảm 1,2%.

Trong lúc tổng thu nhập quốc gia ngày càng nhỏ so với GDP (năm 2000 tỷ lệnày là 98,6% GDP đến năm 2009 giảm còn 94% GDP) thì tỷ lệ tiết kiệm từ nềnkinh tế cũng giảm nhanh chóng, đặc biệt từ 2006 đến nay (từ 36% xuống còn29% GDP). Tiết kiệm của nội bộ nền kinh tế là nguồn cơ bản để đầu tư, thếnhưng tỷ lệ tiết kiệm trên tổng vốn đầu tư hàng năm lại giảm nhanh, từ 87%của năm 2006 xuống chỉ còn 67% trong năm 2009.

Như vậy là trong vòng 4 năm, tỷ lệ này giảm gần 20 điểm phần trăm, nhưngđiều đáng ngại hơn cả là tỷ lệ đầu tư trên GDP lại không hề suy giảm vàthường xuyên ở mức hơn 40% GDP. Điều này cho thấy không thể nói chung chunggiảm tăng trưởng để ổn định vĩ mô mà cần xác định ổn định vĩ mô là ổn địnhcái gì?

Theo Bùi Trinh
TBKTSG