Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Châu, nghịch lý thứ nhất là bổ nhiệm GS, PGS để lấy danh hay vinh danh một người chứ không phải để người được bổ nhiệm GS, PGS thực thi nhiệm vụ nghiên cứu giảng dạy. Bởi vì, việc bổ nhiệm chức danh GS, PGS không xuất phát từ nhu cầu của trường ĐH, viện nghiên cứu.
Thứ hai, Việt Nam có số lượng GS, PGS được bổ nhiệm vào loại nhiều ở các nước châu Á, đặc biệt so với các nước Đông Nam Á, nhưng vẫn không có ĐH nào được xếp hạng top 300 của châu Á (theo Higher Education năm 2017). Trong khi đó, hầu hết nước Đông Nam Á khác như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, thậm chí Philippines đều có ĐH xếp hạng top 300 châu Á.
Thứ ba, GS, PGS ở Việt Nam mang danh cả đời. Ở các nước trên thế giới, GS, PGS chỉ là vị trí giảng dạy, nghiên cứu, khi về hưu hoặc chuyển sang việc khác thì thôi chức danh GS, PGS.
Thứ tư, nhiều người không dạy cũng chẳng nghiên cứu vẫn mang hàm GS, PGS.
Thứ năm, người về hưu vẫn đăng ký GS, PGS - chuyện lạ chỉ có ở Việt Nam.
Nhiều người không dạy cũng chẳng nghiên cứu vẫn mang hàm GS, PGS . Ảnh minh họa. |
Thứ sáu, nhiều GS, PGS được bổ nhiệm nhưng chỉ 30% có thể đạt chuẩn quốc tế (theo GS Đỗ Trần Cát, nguyên Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước). Thực tế, nếu tính chuẩn GS, PGS quốc tế phải có 50-100 công bố trên tạp chí thuộc danh sách ISI, số đạt chuẩn còn ít hơn nhiều.
Thứ bảy, nhiều GS, PGS nhưng ít sản phẩm khoa học. Ở các nước, mỗi năm, GS, PGS thường có trung bình 10 công bố/sáng chế; ở Việt Nam trung bình mỗi năm 5-10 GS/PGS mới có 1 công bố ISI.
Thứ tám, yêu cầu nhiều chuẩn nhưng chất lượng vẫn thấp. Quy định chuẩn xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS ở Việt Nam vào loại nhiều chuẩn và phức tạp nhất thế giới nhưng mỗi năm xét được 500-600 GS, PGS mà đa số không đạt chuẩn quốc tế.
Nếu áp đúng tiêu chí GS, PGS Việt Nam, GS Ngô Bảo Châu chắc chắn cũng không đạt chuẩn GS Việt Nam (vì ông đâu có đủ ít nhất 20 điểm công trình quy đổi, chưa đủ hướng dẫn chính thành công 2 tiến sĩ, chưa có sách, cũng chưa đủ thâm niên và số giờ dạy mỗi thâm niên).
Mặt khác, PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu cũng cho rằng chỉ ở Việt Nam mới xét GS, PGS bằng tổng những số vô cảm: Điểm bài báo + điểm sách + điểm hướng dẫn nghiên cứu sinh + số giờ giảng dạy + thâm niên giảng dạy + tỷ lệ phiếu yêu/ghét. Tất cả xếp hàng ngang, chỉ cần một trong các tiêu chí trên không đủ theo quy định thì không đạt GS, PGS.
Cùng một bài báo trên một tạp chí nhưng tính điểm khác nhau ở các hội đồng khác nhau.
Để được xét GS, PGS, các ứng viên phải chuẩn bị 3 bộ hồ sơ xét đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS. Đối với các ứng viên có nhiều bài báo công bố, nhiều sách, nhiều đề tài, nhiều hợp đồng giảng dạy..., bộ hồ sơ có thể nặng đến 50 kg.
Để được xét GS, PGS, các ứng viên phải vượt qua 3 cấp hội đồng: Hội đồng Chức danh GS cơ sở, Hội đồng Chức danh GS ngành/liên ngành và Hội đồng Chức danh GS Nhà nước.
Giáo sư "rởm” xét cho ứng viên GS thật. GS “rởm” ở đây là giáo sư không đạt chuẩn quốc tế, không có kinh nghiệm nghiên cứu và công bố quốc tế lại đi thẩm định cho ứng viên đạt chuẩn quốc tế.