Khoảng hơn hai tuần trở lạiđây, tỷ giá Đô la Mỹ/đồng Việt Nam có khuynh hướng giảm, cả trên thị trườngchính thức (qua hệ thống ngân hàng thương mại) và thị trường tự do (các tiệmvàng và những điểm thu đổi ngoại tệ không chính thức).
Việc tỷ giá giảm như vậy có ýnghĩa và tác động như thế nào?
Góc nhìn vi mô: Nên vay Đô la, gửi tiền đồng?
Có nhiều nguyên nhân đã được phân tích để giải thích cho hiện tượng này, trongđó đặc biệt là sự chênh lệch lãi suất (cả tiền gửi và cho vay) đáng kể giữa Đôla Mỹ so với đồng Việt Nam.
Một số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn đã làm phép tính đơn giản: giả sử nếu cầnvay 1,91 tỉ đồng thì mỗi tháng họ phải trả số lãi khoảng 28,65 triệu đồng chomức lãi suất 18%/năm. Thay vào đó, họ có thể đi vay số tiền tương đương 100.000Đô la Mỹ theo lãi suất 6%/năm thì chỉ phải trả số lãi 500 Đô la Mỹ/tháng, tươngđương 9,55 triệu đồng. Vậy là doanh nghiệp đi vay được lợi hơn đến 19,1 triệuđồng.
Đối với người gửi tiền, việc tính toán cũng đơn giản như vậy: nếu gửi 1,91 tỉđồng thì số lãi sau một tháng gửi theo lãi suất 11,5%/năm là 18,3 triệu đồng;trong khi chuyển số tiền đó sang Đô la Mỹ được khoảng 100.000 Đô la rồi đem gửingân hàng thu lãi khoảng 375 Đô la/tháng theo lãi suất 4,5%/năm, tương đương7,16 triệu đồng. Tính ra người gửi tiền sẽ thiệt hơn 11 triệu đồng nếu gửi bằngĐô la Mỹ.
Như vậy, nếu là người gửi tiền thì họ sẽ chọn gửi bằng tiền đồng, trong khingười đi vay thì chọn vay Đô la Mỹ. Nếu người gửi tiền chỉ có Đô la Mỹ thì họphải bán đi để lấy tiền đồng gửi ngân hàng, trong khi người đi vay nếu cần tiềnđồng thì sẽ đi vay Đô la Mỹ rồi bán lại lấy tiền đồng.
Các hành vi của cả hai nhóm người gửi tiền và người đi vay đã làm tăng nguồncung Đô la Mỹ, đẩy tỷ giá giao ngay trên thị trường ngoại tệ giảm, góp phần hạnhiệt căng thẳng tỷ giá trong thời gian qua. Liệu thực trạng này có phải là kếtquả của các điều chỉnh có chủ đích của các nhà hoạch định chính sách? Điều đángtiếc là nó không những chỉ có tác dụng tạm thời trong ngắn hạn mà còn góp phầntạo ra các chu kỳ có tính rủi ro trong dài hạn.
|
Việc tỷ giá giảm hiện nay không phải do yếu tố làm tăng tổng cung ngoại tệ trong nền kinh tế mà là một sự điều chỉnh tạm thời sự mất cân đối trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối (Ảnh: Lê Toàn) |
Như vậy, ở cả góc độ người gửi tiền cũng nhưngười đi vay thì các tính toán trên là chưa ổnvì họ chưa tính hết các xu thế bất lợi có thểphát sinh là hệ quả từ chính những hành vi giaodịch ngắn hạn của mình. Cụ thể, các tính toánquy đổi tiền tệ trên chỉ đơn giản sử dụng mộtmức tỷ giá thống nhất (điều này đã từng đúngtrong một số thời điểm trước đây khi tỷ giá muavà bán luôn chạm trần quy định), trong khi cầnphải lưu ý đến chênh lệch tỷ giá mua và bán (bid- offer spreads) của ngân hàng.
Điều quan trọng hơn khi tính các khoản trả nợbằng các đồng tiền khác nhau phải căn cứ vào tỷgiá kỳ hạn chứ không phải tỷ giá giao ngay. Tỷgiá kỳ hạn thường được tính dựa trên lý thuyếtvề sự cân bằng lãi suất CIP (covered interestparity). Tất cả các hành vi đầu cơ, phòng vệ,hay kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) đều làcơ sở của lý thuyết CIP.
Thực chất các hành vigiao dịch trên sẽ không chỉ làm thay đổi tỷ giágiao ngay như được phân tích hiện nay mà còn làtỷ giá kỳ hạn, và kể cả lãi suất của các đồngtiền liên quan.
Thực tế đã cho thấy dư nợ bằng ngoại tệ đã tăng14,07% so với tháng 12/2009 (theo Bộ Kế hoạch vàĐầu tư) phản ánh nhiều doanh nghiệp đã tăngcường đi vay ngoại tệ thay vì nội tệ. Hành vi đivay ngoại tệ thay vì nội tệ trong ngắn hạn sẽtạo áp lực tăng lãi suất cho vay ngoại tệ nhưnggiảm lãi suất cho vay nội tệ.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp đi vay ngoại tệđể thanh toán cho hàng nhập khẩu, trong khi sốkhác thì bán lượng ngoại tệ này để lấy nội tệphục vụ cho hoạt động kinh doanh hoặc đầu tư (cóthể là gửi ngân hàng). Chính hành vi này đã làmcho tỷ giá giao ngay giảm trong thời gian qua.Tuy nhiên, điều quan trọng là phải phân tích xuhướng dài hạn của lãi suất và tỷ giá kỳ hạn.
Việc đi vay ngoại tệ khác với mua ngoại tệ mộtcách căn bản. Nếu như mua ngoại tệ thì đó là mộtsự chuyển giao quyền sở hữu đối với ngoại tệ,trong khi đi vay thì chỉ là sự chuyển giao quyềnsử dụng mà thôi. Như vậy, việc đi vay buộc phảitrả nợ sau một kỳ hạn nhất định trong khi muangoại tệ không tạo ra áp lực này. Các doanhnghiệp đi vay ngoại tệ chắc chắn đã tính đếnđiều này, song vấn đề là doanh nghiệp đó có khảnăng tạo ra ngoại tệ để trả nợ hay không.
Về điều này thì chỉ các doanh nghiệp có hoạtđộng xuất khẩu mới có thể có ngoại tệ để trả nợ,trong khi doanh nghiệp nhập khẩu thì chỉ có cáchđi mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Khôngcó số liệu cho biết bao nhiêu phần trăm doanhnghiệp đi vay ngoại tệ hiện nay có hoạt độngxuất khẩu, tuy nhiên điều chắc chắn là nó sẽ gâyáp lực không nhỏ lên tỷ giá kỳ hạn.
Ngoài ra, khuynh hướng thay đổi của lãi suất dosự thay đổi của các yếu tố vĩ mô như tăng trưởngkinh tế, lạm phát, cán cân thanh toán; hay sựđiều chỉnh chính sách tiền tệ và tài khóa cũngsẽ làm thay đổi tỷ giá kỳ hạn. Các doanh nghiệpcó thể sử dụng phương pháp mô phỏng đơn giản đểtính toán các khả năng có thể. Khi ấy, các tínhtoán ở trên có thể là lợi bất cập hại.
Tức là, nếu tỷ giá tăng thì khoản lợi về chi phílãi trên thị trường tiền tệ chưa hẳn đã bù đượccho khoản thiệt hại tỷ giá trên thị trường ngoạihối.
![]() |
Góc nhìn vĩ mô: Cán cân thương mại và nợ nướcngoài
Đứng ở góc độ vĩ mô, cần nhận thấy rằng tỷ giágiảm sẽ không khuyến khích xuất khẩu, trong khilại càng khuyến khích nhập khẩu, gây áp lực lớnlên cán cân thương mại.
Số liệu thống kê cho thấy nhập siêu trong quý1/2010 đã đạt mức 3,5 tỉ Đô la Mỹ, bằng 25% kimngạch xuất khẩu. Trong đó, kim ngạch nhập khẩuđạt 17,5 tỉ Đô la, tăng 37,6% so với cùng kỳ;trong khi kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 14,01 tỉĐô la, giảm 1,6% so với cùng kỳ.
Dưới cơ chế tỷ giá thả nổi, cầu nhập khẩu tănglên trong khi cung xuất khẩu giảm thì sẽ gây áplực tăng tỷ giá, tức tạo ra cơ chế tự điều chỉnhcho cán cân thương mại. Tuy nhiên, điều đángtiếc là tỷ giá Đô la Mỹ/đồng Việt Nam luôn bịkìm hãm bởi cơ chế điều hành tỷ giá của Ngânhàng Nhà nước.
Lập luận tăng tỷ giá sẽ làm tăng gánh nặng nợnước ngoài là không thuyết phục bởi hàng nămViệt Nam luôn là nước có khoản trả nợ ròng dương.Chẳng hạn, trong năm 2009, kế hoạch Chính phủViệt Nam sẽ trả nợ 930 triệu Đô la Mỹ, trong khihạn mức vay nợ thương mại lên đến khoảng trên 4tỉ Đô la, chưa tính các khoản vay ưu đãi và hỗtrợ phát triển chính thức (ODA) trên 1,7 tỉ Đôla Mỹ.
Mặc dù con số thực tế giải ngân so với kế hoạchthấp nhưng ngân lưu nợ nước ngoài ròng vẫn dương.Điều này cho thấy việc tăng tỷ giá chưa hẳn đãgây bất lợi cho dịch vụ nợ của Việt Nam. Trongkhi đó gánh nặng nợ sẽ lớn hơn đối với nền kinhtế nếu cứ mãi để cho cán cân thương mại thâm hụtngày càng lớn như hiện nay.
Tác động ngắn hạn, thách thức dài hạn
Nhìn một cách tổng thể, sẽ nhận ra rằng việc tỷgiá giảm hiện nay chỉ có tính chất ngắn hạn vàkhông bền vững.
Nếu so với giai đoạn nửa đầu năm 2007 - khi ấytỷ giá giảm là do dòng vốn đầu tư nước ngoài (chủyếu là vốn đầu tư gián tiếp) đổ vào Việt Namtăng mạnh, ước khoảng 9 tỉ Đô la Mỹ - thì việctỷ giá giảm hiện nay không phải do yếu tố làmtăng tổng cung ngoại tệ trong nền kinh tế mà làmột sự điều chỉnh tạm thời sự mất cân đối trênthị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, sự điều chỉnh tỷ giá hiện nay có thểgiúp cải thiện phần lỗi và sai sót lên đến 9,4tỉ Đô la trên bảng cán cân thanh toán năm 2009mà nguyên nhân thực chất không phải mang tính kỹthuật.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh ngắn hạn của tỷ giá sẽlàm tăng rủi ro trong các hoạt động kinh doanh,tạo ra những chu kỳ kinh tế có tính bất ổn cao.Điều đáng tiếc là không mấy doanh nghiệp ở ViệtNam sử dụng các công cụ phái sinh như hợp đồngkỳ hạn (forwards), hoán đổi (swaps), hay quyềnchọn (options) để bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Trong khi đó, các thách thức mới của Chính phủcũng như Ngân hàng Nhà nước đối với vấn đề nàynhư mới chỉ bắt đầu. Khi các khoản nợ Đô la Mỹhiện nay đến hạn, áp lực nảy sinh và rủi rokhông chỉ đối với các doanh nghiệp không cónguồn thu ngoại tệ mà còn gây trở ngại đối vớicả mục tiêu ổn định vĩ mô của Chính phủ.
Theo Đỗ Thiên Anh Tuấn