Gửi đi thông điệp: không tăngdự trữ bắt buộc, không phát hành tín phiếu, siết chặt mức tăng tín dụng, kiênquyết giữ trần huy động 14% và không lập trần lãi vay, điều này cho thấy, Ngânhàng Nhà nước vẫn chưa có dấu hiệu nới lỏng tiền tệ sau gần 5 tháng thực thithắt chặt.

Dĩ nhiên, khi thắt chặt tiền tệ thì hệ thống tổ chức tín dụng (tổ chức tín dụng)sẽ bị “khô  máu”. Ngân hàng Nhà nước thừa biết sự nguy hiểm này và lựa chọnnhiều cách xử lý khác nhau. 

Giữ thanh khoản như giữ đê

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn giàu, trước áp lực giữ ổn địnhthanh khoản hệ thống, nhất là đối với một số đơn vị đang khó khăn cân đối nguồn,nhà điều hành vừa kết hợp biện pháp tái cấp vốn vừa mua ngoại tệ của họ.

Trong các ngày 5, 6, 9, 10, 12, 13/5, khi lãi suất thị trường liên ngân hàng bịđẩy cao, Ngân hàng Nhà nước bơm tiền khá mạnh qua nhiều kênh, trong đó có kênhmua ngoại tệ, có những ngày, Ngân hàng Nhà nước mua tới 200 triệu USD.

Để dành tiền hỗ trợ thanh khoản đúng địa chỉ, Ngân hàng Nhà nước duy trì quy môgiao dịch nghiệp vụ thị trường mở (OMO) một cách dè dặt. Nhà điều hành cho rằng,những đơn vị sở hữu nhiều giấy tờ có giá thường quản trị rủi ro khá tốt, thanhkhoản vững.

Nếu để lượng tiền trên OMO rơi nhiều vào nhóm này thì không khác gì “mang thêmcủi về rừng” và tạo điều kiện để họ “cày xới trên lưng kẻ khác”, nhất là trongthời buổi thắt chặt tiền tệ.

Vì  vậy, có những thời điểm, Ngân hàng Nhà nước xác định tỷ lệ “đấu” trên OMO là“3 ăn 1”, thậm chí “4 hoặc 5 ăn 1”; có nghĩa: tổ chức tín dụng (tổ chức tíndụng) mang số lượng giấy tờ có giá trị giá 3 - 4  hoặc 5 nghìn tỷ đồng nhưng chỉcó thể đấu giá được 1 nghìn tỷ đồng.

Cùng đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chiến thuật “cò cưa” với dòng tiền ngoàixã hội để cố nắn dòng tiền này vào hệ thống ngân hàng như dẫn cá vào lưới. Mộtnguyên lý là khi thắt chặt tiền tệ thì lãi suất phải cao. Điều này đúng cả vớilãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước và lãi suất thương mại. Nhưng ở đây,Ngân hàng Nhà nước lại làm ngược.

Đầu tiên, Ngân hàng Nhà nước đặt trần khống chế lãi suất huy động tiền gửi 14%,mở thoáng lãi tiền vay. Tiếp đó là bóp nghẹt “van” tín dụng phi sản xuất đối vớivàng, bất động sản, chứng khoán một cách dứt khoát và không nhượng bộ: đến31/12/2011, tỷ trọng dư nợ phi sản xuất phải rút xuống 16% từ mức khoảng 20%hiện nay.

Là người nắm giữ đồng tiền, khi lạm phát cao, lãi tiền gửi thấp, hầu hết đềumuốn đầu cơ vào vàng, chứng khoán, bất động sản và ngoại tệ để bảo toàn giá trịcũng như đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Nhưng khi những thị trường nóitrên bị “xì hơi” mà một trong những nguyên nhân chính là Ngân hàng Nhà nước chặndòng chảy tín dụng vào đây, kết hợp với các biện pháp hành chính răn đe, đãkhiến người nắm giữ tiền không còn lựa chọn nào khác ngoài gửi vào ngân hàng.

Thực ra, để dòng tiền của người dân thực sự chảy vào hệ thống ngân hàng thì Ngânhàng Nhà nước còn có thêm một động tác khác là… làm ngơ với xé rào lãi suất.

Chuyện ngân hàng thương mại huy động chui lãi suất vượt quá 14% đã nhiều thángnay, Ngân hàng Nhà nước có biết nhưng chưa thấy ai bị…  xử lý và rùm beng truyềnthông như vụ bắt giữ mua bán trái phép 390.500 USD ngày 9/3/2011. Có vẻ, Ngânhàng Nhà nước chấp nhận mang tiếng “phép nước bị nhờn” nhưng đổi lại là các tổchức tín dụng có thêm vốn, Ngân hàng Nhà nước đỡ tốn “mồi”, còn dòng tiền ngoàidân cư lại chảy vào ngân hàng. 

Và thực tế, số liệu Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 25/5/2011 cho thấy: tiền gửidân cư tăng tới 11,84%; trong đó, VND tăng 107.300 tỷ đồng, tương ứng 11,39% vàtiền gửi ngoại tệ tăng 8,63%. Thậm chí, không ít người đã bán USD lấy tiền đồnggửi vào ngân hàng vì chênh lệch lãi suất tới trên 10%/năm.

Vẫn chưa nới lỏng tiền tệ: Đợi lạm phát thuyên giảm?
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước

Với cách làm như trên, kết quả là những ngày cuối tháng 5, thanh khoản hệ thốngkhá ổn  định. Đến mức, ngày 25/5, Ngân hàng Nhà nước “khoe” đã hút về 30 nghìntỷ đồng và chào bán 25 nghìn tỷ nhưng dư mua chỉ 21 nghìn tỷ đồng.

Tất nhiên, thanh khoản giữ ổn định trở lại còn có một nguyên nhân khác cộnghưởng vào là thời điểm cuối tháng, các tổ chức tín dụng đã trích lập đủ các loạidự phòng và dự trữ bắt buộc nên nhu cầu vốn giảm nhiệt. 

Mặc dù vẫn phải chờ đợi để kiểm chứng sự ổn định thanh khoản có trở thành xuhướng hay chưa nhưng đến thời điểm này, có thể thừa nhận một điều: yêu cầu quantrọng nhất của Ngân hàng Nhà nước khi thắt chặt tiền tệ là phải giữ được ổn địnhthanh khoản thì Ngân hàng Nhà nước đã đạt mục đích. 

Lãi vay cao vẫn bỏ ngỏ!

Nếu như thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã “ghi ba bàn thắng”: bình yên thịtrường vàng, ngoại tệ và giữ được thanh khoản thì hiện tại, bài toán lãi suấttiền vay vẫn bỏ ngỏ.

Hiện tại, khá nhiều than phiền về lãi suất cao và xuất hiện không ít “tư vấn” từgiới phân tích rằng, Ngân hàng Nhà nước nên “nới trần lãi suất huy động”, “bỏtrần lãi suất tiền gửi, khống chế lãi suất tiền vay” hoặc nới lỏng tiền tệ…

Tuy vậy, đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn bảo lưu quan điểm của mình: giữ nguyêntrần lãi suất huy động 14%, không khống chế lãi suất tiền vay và không nới lỏngtiền tệ dưới bất kỳ hình thức nào, ngoài việc bơm tiền chỉ để hỗ trợ thanh khoảnđúng đích ngắm.

Tất nhiên, thực tế này đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa giảiquyết được bài toán lãi suất tiền vay và phải chấp nhận phản ứng từ cộng đồngngân hàng, giới đầu tư, đầu cơ và dư luận xã hội.

Đơn cử, dạo một vòng trên những diễn đàn đầu tư, đủ thấy giới đầu cơ bất độngsản và chứng khoán quan tâm đến các động thái điều hành chính sách tiền tệ nhưthế nào.

Họ  sưu tầm tất cả những thông tin như tăng lãi suất chủ chốt, giới hạn tăngtrưởng tín dụng và tỷ trọng tín dụng phi sản xuất… Với họ, điều quan tâm duynhất lúc này là: bao giờ Ngân hàng Nhà nước sẽ nới lỏng tiền tệ. 

Và tình trạng này thái quá đến mức, nếu ai đó “lỡ lời” tư vấn cho Ngân hàng Nhànước nên nên “phát hành tín phiếu” hay “tăng dự trữ bắt buộc” lập tức bị cộngđồng mạng tẩy chay và kèm theo nhiều lời lẽ thiếu văn hóa.

Vậy, vì sao Ngân hàng Nhà nước lại có thể kiên trì đến mức  đáng sợ như vậy? Dựavào những công bố mới đây của Ngân hàng Nhà nước, có thể thấy rằng, lý do đầutiên để nhà điều hành chưa thực hiện nới lỏng tiền tệ chính là lạm phát. 

Theo Tổng Cục Thống kê, CPI tháng 5/2011 tăng 2,21% so với tháng 4/2011, tăng12,07% so với 31/12/2010 và tăng 19,78% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giátiêu dùng bình quân 5 tháng đầu năm 2011 tăng 15,09% so với bình quân cùng kỳnăm 2010.

Trong khi đó, cũng theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu thì  tínhđến hết 2010, tổng lượng tín dụng toàn bộ  nền kinh tế ở mức gấp 1,2 lần so vớiGDP 2010 (104 tỷ USD), tương đương 2,5 triệu tỷ đồng.

Trong bối cảnh đà tăng CPI tháng 5 tuy giảm so với tháng 4/2011 nhưng vẫn tăngvà tương quan tổng dư nợ tín dụng và GDP đang ở ngưỡng lớn nhất nhì  thế giớitrong một số năm gần đây, đã khiến cho Ngân hàng Nhà nước phải đắn đo trước áplực nới lỏng tiền tệ do e ngại đổ thêm dầu vào ngọn lửa lạm phát.

Vả lại, phân tích tốc độ tăng CPI của tháng 5 đang có dấu hiệu chững lại và điềunày nhóm lên tia hy vọng là tốc độ tăng lạm phát sẽ giảm nên Ngân hàng Nhà nướcchưa vội nới lỏng tiền tệ.

Chưa kể rằng, khi sức sản xuất hàng hóa chưa được phục hồi thì việc mở rộng tíndụng sẽ tăng thêm nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước thừa hiểu rằng, để lạm phát giảm thì bên cạnh giảipháp cực chẳng đã thắt chặt tiền tệ thì chính sách tài khóa phải nhập cuộc thựcsự.

Như vậy, phải chăng lời giải bài toán lãi suất đang phải chờ đợi sự hiện thựchóa quá trình “cắt giảm chi tiêu thường xuyên, đầu tư Chính phủ, đầu tư củadoanh nghiệp nhà nước” mà Chính phủ đã hứa?

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy