Ngân hàng Nhà nước vừa mới chỉđạo từng ngân hàng thương mại không được tăng dư nợ tín dụng quá 20%.
Giới phân tích tài chính cho rằng, đây là hành động siết chặt tiền tệ nặng thêmđể kiểm chế lạm phát, khi mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 phi mã lên3,32%. Tuy nhiên, trong khi chính sách tiền tệ đang bị lạm dụng thì dường như,chính sách tài khóa vẫn còn dửng dưng.
Khó tứ bề
Nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại lớn, đã “tưởng” rằng chỉtiêu tăng trưởng tín dụng dưới 20% của năm nay là chỉ số chung toàn ngành, vàkhông áp dụng cứng nhắc cho từng ngân hàng.
Vì thế, cách đây vài tuần, đã có ngân hàng “đánh tiếng” với với Ngân hàng Nhànước tại một hội thảo: “Chúng tôi là ngân hàng lớn, phải phục vụ vốn cho nhiềudự án trọng điểm quốc gia, nên cần được nới “room” tín dụng vượt quá 20%”.
Nhưng nay, thông điệp của Ngân hàng Nhà nước đã quá rõ ràng: bất phân ngân hànglớn hay nhỏ, nhà nước hay cổ phần, trong hay ngoài nước, tất cả chung một chỉtiêu.
Phản ứng trước thông tin này, những ngân hàng lớn cho rằng, vấn đề cấp bách hiệnnay là giải quyết thanh khoản cho cả hệ thống, sau đó mới nên tính đến chuyệnkhống chế chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Theo cán bộ tín dụng một ngân hàng, từ đầu năm đến nay, đặc biệt là sau khiChính phủ ban hành Nghị quyết 11 và Ngân hàng Nhà nước triển khai Chị thị 01,toàn ngành ngân hàng gần như chỉ nhắm đến một mục tiêu: hãm đà lạm phát.
Cùng với kế hoạch giảm mức tăng tín dụng toàn hệ thống năm 2011 so với 2010khoảng 70 nghìn tỷ đồng, Ngân hàng Nhà nước đã rốt ráo thắt chặt tiền tệ bằngnhững công cụ chủ chốt như tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu; thu hẹpquy mô giao dịch và tăng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở; rút nguồn tái cấp vốnở một số ngân hàng thương mại Nhà nước về kho…
Dĩ nhiên, khi hành động như vậy, hiệu quả kiềm chế lạm phát có thể chưa hiện rõ(vì độ trễ của chính sách), nhưng trước mắt, đã hiện ra nỗi lo thanh khoản, vốndĩ âm ỉ trong hệ thống ngân hàng nhiều năm nay.
Có lẽ vì thế mà Ngân hàng Nhà nước còn chần chừ chưa sử dụng tới công cụ dự trữbắt buộc VND. Liên quan đến vấn đề này, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu nói: “Dự trữbắt buộc là công cụ đầy "bạo lực". Hiện chỉ cần tăng dự trữ bắt buộc 1% thì Ngânhàng Nhà nước đã hút về khoảng 20 nghìn tỷ đồng”.
![]() |
Theo cán bộ tín dụng một ngân hàng, từ đầu năm đến nay, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 11 và Ngân hàng Nhà nước triển khai Chị thị 01, toàn ngành ngân hàng gần như chỉ nhắm đến một mục tiêu: hãm đà lạm phát (Ảnh: tiepthigiadinh.com.vn) |
Ở một bình diện khác, theo phản ánh từ các ngân hàng thương mại lớn, trong đó cócác ngân hàng thương mại nhà nước, trong khi tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhànước đang rất khó khăn thì họ còn phải đối mặt tình trạng “chảy máu” nguồn vốn.
Theo thông tin riêng của người viết, nguồn tiền gửi của một ngân hàng thương mạiNhà nước hiện đã bị hụt 17 nghìn tỷ đồng so với tình trạng bình thường, do nhiềungân hàng khác lách luật dâng lãi suất rút đi. Tương tự, cán bộ lãnh đạo bannguồn vốn một ngân hàng khác cũng phản ánh thêm: “Khách hàng chúng tôi đang mặccả lãi suất tiền gửi tới 19%/năm, nếu không chấp nhận, họ sẽ “chuyển tay ba”ngay lập tức”.
“Chuyển tay ba”, có nghĩa, ngân hàng đang nhận tiền gửi không chấp nhận nâng lãisuất cho “bằng chị, bằng em” thì khách sẽ rút và bàn giao ngay cho nhân viên tíndụng của ngân hàng khác, khỏi mất công kiểm đếm!
Vừa phải khó khăn xoay xở với thanh khoản, vừa không đẩy được tín dụng ra thịtrường do bị khống chế bởi “chỉ tiêu 20%”, đã báo trước một viễn cảnh đầy biquan của báo cáo tài chính các ngân hàng trong năm nay.
Lý do chậm trễ?
Theo bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, trong khichính sách tiền tệ quá mệt mỏi vì chống lạm phát và thanh khoản hệ thống đang bịtổn thương thì chính sách tài khóa thể hiện qua các tuyên bố “cắt giảm chithường xuyên 10%”, “giảm đầu tư công”, “giảm bội chi ngân sách” vẫn chưa đượcchuyển hóa thành thực tế.
Thực tế, đã hơn một tháng qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cử hơn 10 đoàn xuống địaphương rà soát cắt giảm đầu tư công, nhưng con số cắt giảm bao nhiêu, cắt giảmnhững dự án nào vẫn chưa được công bố.
Theo TS. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệQuốc gia, một trong những lý do của sự chậm trễ này chính là cơ chế phân bổ vàphân cấp quản lý ngân sách quốc gia. Theo ông, nếu muốn quản trị rạch ròi thìcần phải phân biệt ngân sách quốc gia khác với ngân sách địa phương.
Theo đó, Quốc hội phải kiểm soát ngân sách quốc gia còn chính quyền địa phươngthì kiểm soát ngân sách địa phương. Muốn làm được điều này thì phải điều chỉnhngay từ luật thuế. Cụ thể, theo luật định, loại thuế gì thuộc về ngân sách quốcgia, còn loại thuế gì thuộc về ngân sách địa phương, kể cả một đồng, một cắccũng phải rành rẽ. Sự rạch ròi này sẽ làm rõ tính chất của ngân sách, chứ khôngphải "tiền lớn" thì về ngân sách Trung ương còn "tiền nhỏ" thì về địa phương nhưViệt Nam hiện nay.
Khi đó, về nguyên tắc, mỗi địa phương sẽ tự quyết thu chi theo luật định, cònTrung ương không can thiệp. Ông Lịch cũng nêu một dẫn chứng: Thượng Hải (TrungQuốc) là địa phương có nguồn thu thuế rất lớn, vì thế, Chính phủ Trung Quốc luôntạo ra một “dư địa” để họ tự chủ nguồn thu bằng cách cấp rót ngân sách thiếu sovới nhu cầu.
Do thực hiện thu ngân sách theo kiểu “miếng lớn là của Trung ương, miếng bé làcủa địa phương” nên khi phân bổ ngân sách cho địa phương, tất yếu nảy sinh cơchế “xin - cho”. “Giống như thả gà ra đuổi. Lẽ đời, đã cho thì khi đòi lại rấtkhó”, một ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận xét.
Chưa kể, không ít địa phương vận dụng phương sách “con khóc, mẹ mới cho bú”,bằng cách xin thật nhiều dự án để được cấp ngân sách, còn triển khai thì cứ...từ từ.
Có phải vì thế mà hơn một tháng qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cử các đoàn công tácxuống các địa phương và tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước “rà soát” để“cắt giảm”, mà hiện vẫn chưa có kết quả?
Và, giá như cơ chế thu chi ngân sách được điều chỉnh qua luật thuế như nói trên,thì việc cắt giảm đầu tư công để chống lạm phát hẳn sẽ đơn giản hơn, và chínhsách tiền tệ không bị lạm dụng quá mức như hiện nay?
Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy