Sức căng của vốn ngoại tệ làchưa đủ để khỏa lấp các yêu cầu vốn. Đi cùng với những điều chỉnh của chính sách,nó bù chỗ này, lại hụt chỗ kia…

Là một quá trình, lúc này độ trễ của tác động chính sách đã dần qua, để lộ nhữnggiá trị được và mất. Nhà điều hành hẳn có thêm những kinh nghiệm để ứng xử vớitương lai, trong đó không loại trừ sự đánh đổi.

Cái khó của “con nhà nghèo”

Từ một quốc gia “không có đồng USD dự trữ ngoại tệ nào” đầu thập niên 90, ViệtNam dần chủ động được sự đối ứng tính theo tuần nhập khẩu. Mức cao nhất củalượng dự trữ ngoại tệ cách đây khoảng hai năm ghi nhận ở trên 12 tuần nhập khẩu,nay còn khoảng 9 tuần nhập khẩu (theo thông tin được đưa ra tại hội nghị CG giữakỳ vừa qua). Nếu tính một cách thông thường theo tổng kim ngạch nhập khẩu 7tháng đầu năm, 9 tuần đó tương đương với khoảng 14,7 tỷ USD.

Sự nghèo đi của dự trữ ngoại tệ là kết quả của một phần ứng xử của nhà điều hành,trước những khó khăn của một nền kinh tế liên tục nhập siêu ở mức cao, trước ảnhhưởng của khủng hoảng và căng thẳng cung - cầu ngoại tệ trong năm 2009 và đầu2010… Nhưng đến nay, thị trường ngoại hối đã có khoảng bốn tháng “yên bình”.

Dĩ nhiên, bên cạnh việc bán hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại, nhàđiều hành đã phải linh hoạt áp dụng một loạt chính sách để tạo được sự ổn địnhđó.

Liên tục từ cuối năm 2009 đến đầu 2010, thị trường ngoại hối dồn dập đón nhữngtác động từ chính sách.

Thứ nhất, Chính phủ chỉ đạo 7 tập đoàn và tổng công ty lớn của Nhà nước bán lạingoại tệ cho ngân hàng. Con số cập nhật thời gian đầu là khoảng 700 triệu USDđược bán lại.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước hạ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ.Khoảng 500 triệu USD theo đó được “trả lại” cho các nhà băng.

Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngânhàng thêm khoảng 3%, đồng thời thu hẹp biên độ từ +/-5% xuống còn +/-3%.

Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước quyết định “thắt” lãi suất tiền gửi USD của các tổchức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại các tổ chức tín dụng với quy định tối đa1%/năm.

Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước có thông tư mở rộng đối tượng được vay vốn bằngngoại tệ.

Hiệu quả của loạt chính sách trên là tình trạng găm giữ ngoại tệ tại các doanhnghiệp và căng thẳng cung - cầu trên thị trường được tháo gỡ. Tỷ giá ổn định.Thậm chí trạng thái nghèo đi của dự trữ ngoại tệ có thêm sự bù đắp khi liên tụccác tuần từ tháng 4, báo cáo cập nhật ghi nhận hoạt động bán lại ngoại tệ từngân hàng thương mại cho Ngân hàng Nhà nước.

Vốn ngoại tệ: Đánh đổi để ổn định?
Tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ 7 tháng đầu năm 2010 (đơn vị: %)

Huy động lệch pha tín dụng

Qua độ trễ của tác động chính sách, hiệu quả đã và đang khẳng định. Thế nhưng,bất cập cũng đang lộ diện.

Những ngày gần đây, một số nguồn tin chính thống dẫn dữ liệu từ báo cáo của BộKế hoạch và Đầu tư cho thấy tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đã ở mức rất cao: tiếptục tăng thêm 1,6% trong tháng 7 và đã tăng tới 34,4% so với tháng 12/2009. Điềuđáng nói là trong khi tăng trưởng tín dụng liên tục ở mức cao và đột biến, thìtăng trưởng huy động lại lệch pha. Cũng theo những nguồn trên, trong tháng 7 vừaqua, huy động vốn bằng ngoài tệ giảm 0,25% so với tháng trước, giảm khoảng 2,4%so với tháng 12/2009.

Về những dữ liệu trên, một lãnh đạo của Ngân hàng Nhà nước không phủ nhận. Ôngcũng cho biết số liệu về tín dụng từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư do nguồn Ngân hàngNhà nước cung cấp.

Theo nhận định của một chuyên gia tại Hội nghị Đầu tư 2010 tổ chức ngày 22/7 vừaqua, tín dụng ngoại tệ đã tăng cao quá mức và đã đến giới hạn, dẫn đến số tiềnngoại tệ các ngân hàng huy động được và số tiền cho vay gần như đã cân bằng nhau.

Nếu bất cập trên tiếp tục kéo dài, hoạt động điều hành lại đối diện với nhữngkhó khăn mới.

Trước hết, khó khăn thanh khoản vốn ngoại tệ của các ngân hàng là vấn đề cầntính đến. Thứ hai, huy động kém, lãi suất USD gia tăng (thực tế đã tăng từ tháng6 vừa qua) tạo thêm tâm lý đầu cơ và găm giữ - một nguyên nhân chính trong sựcăng thẳng cung - cầu năm 2009 và đầu 2010. Thứ ba, với tín dụng ngoại tệ giatăng, yêu cầu ngoại tệ trả nợ trong tương lai sẽ gây sức ép lên tỷ giá (dù cóthể phần lớn các khoản vay đã có nguồn thu ngoại tệ đối ứng).

Rõ ràng, những khó khăn trên nếu xẩy ra thì sự ổn định trong khoảng bốn thángqua sẽ tiếp tục giữ được bao lâu? Nhìn lại, đó là một sự đánh đổi mà có lẽ nhàđiều hành cũng đã tiên liệu, để rồi cũng đã có những ứng xử mới thời gian gầnđây.

Nắn dòng và chặn dòng

Vốn ngoại tệ: Đánh đổi để ổn định?

Sự lệch pha giữa tăng trưởng tín dụng và huy động ngoại tệ lại có gốc gác từloạt chính sách nắn dòng vốn áp dụng từ cuối năm 2009 đầu 2010 nói trên.

Sự dịch chuyển của nguồn vốn ngoại tệ huy động sang nguồn vốn thương mại đã thểhiện rõ nét. “Cú hích” từ yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của Nhà nướcbán lại ngoại tệ là một. Việc “thắt” lãi suất tiền gửi USD của các tổ chức từkhoảng 3%-3,5%/năm trước đó xuống tối đa 1%/năm (từ 11/2/2010) là động tác thứhai, dẫn đến phản ứng quy đổi sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn.

Tiếcrằng tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế trong tổng cơ cấu khôngđược công bố cụ thể để góp phần giải thích rõ hơn ảnh hưởng của những chính sáchtrên đến tăng trưởng huy động ngoại tệ của các ngân hàng.

Trong khi đó, sau chính sách hỗ trợ lãi suất, chênh lệch giữa lãi suất vay vốnbằng USD so với VND lên tới 7 - 9 điểm phần trăm, tỷ giá được giữ ổn định đồngnghĩa với khả năng hạn chế rủi ro vay ngoại tệ, cộng với việc mở rộng đối tượngđược vay ngoại tệ đã tạo sự cộng hưởng, đẩy tín dụng ngoại tệ bùng nổ trong 7tháng đầu năm.

Sau những diễn biến trên, nhà điều hành đã bắt đầu có những động thái chặn dòng.Từ tháng 6, phối hợp với Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước đã có yêu cầu các tổchức tín dụng hạn chế cấp ngoại tệ dùng để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu màtrong nước đã sản xuất được. Mặt khác, từ trung tuần tháng 6, cơ quan này cũngđã chính thức đưa ra 6 yêu cầu đối với các tổ chức tín dụng để tăng cường kiểmsoát tín dụng ngoại tệ…

Liệu những biện pháp đó là đã đủ? Một thực tế là nhập siêu trong tháng 7 vừa quađã tăng mạnh trở lại. Hay Ngân hàng Nhà nước sẽ có những điều chỉnh nào đó về kỹthuật, ví như có một mức lãi suất tiền gửi USD đối với các tổ chức kinh tế linhhoạt hơn? Hay tiếp tục giảm được thêm lãi suất vay VND để thu hẹp hơn nữa chênhlệch với lãi suất vay USD, để “điều hòa” nhu cầu vay của doanh nghiệp?

Theo minh Đức
VnEconomy