Bệnh vào từ miệng, đó là câu nóidân dã mà rất đúng. Ăn là nhu cầu đầu tiên và không thể thiếu của mỗi con người,nhưng trên mâm cơm hằng ngày lại tiềm ẩn biết bao nguy cơ gây bệnh nếu khôngbiết cách chế biến đúng hoặc không ăn uống một cách khoa học.

Thừa cân - béophì, tăng huyết áp và các bệnh lý tim mạch có thể đến với bất cứ ai với chế độăn không hợp lý trong những bữa cơm hằng ngày.

Ăn mặn - Yếu tố nguy cơ củatăng huyết áp và các bệnh lý tim mạch

Muối là một gia vị không thểthiếu trong chế biến các món ăn hằng ngày, nhưng nếu ăn quá nhiều sẽ rất nguyhiểm. Bởi với một chế độ ăn mặn (thừa muối), chúng ta có nguy cơ bị tăng huyếtáp (THA) và các biến chứng nặng nề của tăng huyết áp như: đột quỵ, nhồi máu cơtim, suy tim, suy thận...

Thế nào được gọi là ăn mặn?

Ăn mặn “khổ” tim

Ăn mặn - Yếu tố nguy cơ của tăng huyết áp và các bệnh lý tim mạch

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tếThế giới, người trưởng thành mỗi ngày nên sử dụng ít hơn 6 gam muối (một thìa càphê), nếu ăn nhiều hơn thì được gọi là ăn mặn.

Người Việt Nam một số vùng miềncó thói quen ăn mặn. Ăn cơm phải có nước mắm, dưa cà... Hay những người dân vùngbiển cũng có thói quen ăn mặn, uống nước mắm. Có gia đình lại ăn mặn để tiếtkiệm thức ăn.

Trong một khảo sát gần đây đã chobiết, người Việt Nam chúng ta đang có khuynh hướng ăn khá nhiều muối. Lượng muốitrung bình mỗi người tiêu thụ từ 18 - 22g mỗi ngày, trong khi lượng khuyến cáokhông quá 5g. Như vậy, lượng muối ăn đã nhiều gấp 3 - 4 lần so với khuyến cáo.Đây cũng là một trong các yếu tố gây tăng tỷ lệ người bị THA và các bệnh lý timmạch ở nước ta.

Thói quen ăn mặn ảnh hưởng khôngtốt tới sức khỏe và là một trong những yếu tố nguy cơ gây THA và các bệnh lý timmạch. Với chế độ ăn nhiều muối, nước sẽ được giữ lại trong lòng mạch làm tăngthể tích máu lưu thông, làm tăng áp lực máu trong lòng mạch dẫn tới THA.

Việc sử dụng quá nhiều muối dẫnđến một số bất lợi khác đối với sức khỏe như: giữ nước trong các bệnh suy tim,thận nhiễm mỡ. Gây phù chu kỳ, phù trước kỳ kinh, phù vô căn. Tăng co thắt, kíchthích cơn suyễn. Liên quan đến ung thư dạ dày. Tăng thải Ca++ qua thận, tăngnguy cơ loãng xương...

Nhiều công trình nghiên cứu chothấy, chế độ ăn nhiều muối (natri chlorua) thì tần suất mắc bệnh THA tăng cao rõrệt. Người dân ở vùng biển có tỷ lệ mắc bệnh THA cao hơn nhiều so với nhữngngười ở đồng bằng và miền núi. Nhiều bệnh nhân THA ở mức độ nhẹ chỉ cần ăn chếđộ giảm muối là có thể điều trị được bệnh. Chế  độ ăn giảm muối là một biện phápquan trọng để điều trị  cũng như phòng bệnh THA.

Để giảm hơn 50% lượng muối ănhằng ngày là một thói quen rất khó đối với người dân vùng biển hoặc những ngườiđang quen ăn mặn.

Các chuyên gia của Viện Dinhdưỡng Quốc gia đã gợi ý chế độ ăn giảm muối

- Một chế độ ăn tăng cường thêmnhiều loại gia vị khác nhau để tạo cảm giác bớt nhạt nhẽo như cho thêm vị chua,cay, ngọt.

- Riêng mùa hè, cơ thể bài tiếtnhiều mồ hôi hơn mùa đông, vì vậy mỗi người cũng cần ăn tăng thêm một chút muốiđể bổ sung lượng muối bị mất qua mồ hôi. 

- Giảm lượng muối tiêu thụ <6g ngày bằng cách: hạn chế sử dụng những thức ăn chế biến sẵn như mỳ ăn liền, giò chả, lạp xưởng, đồ hộp... Chú ý với những loại thức ăn nhanh, những món ăn công nghiệp luôn có lượng muối khá cao. < span>

- Muối thường được đề cập trongchế độ ăn hằng ngày là muối ăn sodium chloride (NaCl). Tuy nhiên, có nhiều loạimuối khác có cùng gốc sodium (natri) tồn tại trong các loại thức ăn, thức uốngcông nghiệp như: monosodium glutamate (mỳ chính), sodium citrate, sodiumbicarbonate... cũng có tác hại tương tự NaCl khi dùng nhiều.

- Giảm những thức ăn mặn như mắm,tương, dưa, cà… trong bữa cơm hằng ngày ở gia đình; Giảm một số thói quen củangười Á Đông như chấm muối, chấm nước mắm… khi không thật sự cần; Bớt dùng bộtngọt…

- Giảm các yếu tố bất lợi trongthực phẩm: rượu, bia, cafein, chất béo bão hòa…

- Tăng cường các yếu tố bảo vệ:thực phẩm giàu K, Mg, Ca, các chất chống ôxy hóa, chất xơ… và những thực phẩm cótính chất an thần, lợi tiểu nhẹ… như: rau cải, cà chua, bầu bí, khóm, mía , cam,khoai lang, khoai tây, khoai môn, đậu xanh, đậu đen… (500 - 600g rau trái,30-40g đậu đỗ/ngày).

Theo ThS. Phạm Trần Linh
SKĐS