Chuyện cô Thông có chửa làm cả xóm núi kinh ngạc.

- Xóm vắng, có hơn chục nóc nhà, toàn là bà già trẻ nít, chửa với ai mới được chứ?
- Lạ nhỉ, lâu nay cô ta có đi đâu xa, suốt ngày chăm gà, chăm lợn. Ngoài ra chỉ biết chăn dắt mấy con bò dọc bờ sông, mà khúc sông này vắng lắm, nước chảy xiết, toàn vụng thẳm, thuyền bè đi qua dạt sang bờ trái hết, có ai dám bén mảng đến cái xứ khỉ ho cò gáy này đâu?
Người rỗi mồm thì cứ bàn ra tán vào, còn cái bụng cô Thông thì cứ mỗi ngày mỗi nhô cao lên theo thời gian một cách kiêu hãnh...
*
*
Xóm Cùng nằm bên bờ thượng nguồn sông Mã, phía trên là dãy núi Phay Sỉ cao ngất, phía dưới, con suối Tha Ly gồ ghề, nhấp nhô miên man đá, nước chảy róc rách. Bốn mùa chim kêu vượn hót. Có lẽ xưa kia các cụ đặt tên làng “Cùng” là vì thế. Sơn cùng thủy “tận”mà!
Phía bờ sông bên kia là trại giam. Từ làng Cùng nhìn sang, chỉ thấy bịt bùng dây thép gai giăng trên những bức tường cao lù đen mốc. Chiều đến, tiếng kẻng báo hết giờ lao động của tù nhân và tiếng còi tập hợp điểm danh của quản phạm vọng sang. Nhiều hôm, nửa đêm nghe tiếng súng nổ đì đùng, biết là có phạm nhân trốn trại... Nhà nước cũng đã tốn công khảo sát lắm mới thiết kế được một nơi cách ly xã hội để giam giữ những kẻ phạm tội.
Vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước, một số người vùng xuôi do thiếu đất lên khai khẩn ở vùng này. Ban đầu cũng thành lập một “hợp tác xã” hẳn hoi nhưng vì xa phố huyện, đường xá gập ghềnh, làm ăn thì lụn bại, sau xé lẻ, nhà nào biết nhà ấy. Huyện cũng “quên” luôn, có cán bộ nào dám đi vài chục cây số đường mà đến chỉ đạo. Mà có ai mà chỉ đạo? Mấy chục năm rồi mà làng vẫn vắng teo. Đặt tên là bản Cùng không được vì toàn người Kinh ở. Nên người ta vẫn gọi là xóm Cùng. Thanh niên nam nữ, có anh chị nào, lớn lên là lập tức rời khỏi làng đi nơi khác. Đàn bà quá lứa thì đi xuất khẩu lao động, thành thử trong xóm bây giờ chỉ trơ khấc mấy ông bà già sống bằng tiền con cái đi làm xa gửi về cùng với việc hái lượm dưới chân núi.
Thông ở cùng với một bà mẹ già ngoài bảy mươi, cha chết vì một cơn sốt rét ác tính từ khi còn rất bé. Năm nay đã bước sang tuổi “băm”, là đứa con gái cao tuổi nhất chưa có chồng ở cái xóm núi heo hút này.
Thông bị tật từ nhỏ. Bàn chân phải quặp vào bên trong nên đi cà nhắc. Mỗi khi kéo cái chân phải lên thì tay trái lại huơ ra phía trước giật vào như là đang gặt lúa.
Đúng là tạo hóa khéo sắp đặt, bù vào cái chân dị tật ấy lại đi theo một khuôn mặt hiền dịu cùng với đôi mắt lá răm bí ẩn, bộ ngực đầy đặn, cổ cao trắng nõn nhấp nhô cặp vú tròn căng. Giá không tật nguyền thì làm gì cô ta còn ở cái xóm này? Cô đã bay sang Đài Loan hoặc chí ít là Hàn Quốc làm ô sin để khi trở về xây cái biệt thự mấy tầng sang trọng từ lâu rồi!
Việc cô Thông có chửa với ai vẫn là đầu đề của câu chuyện của mấy mụ già hay ngồi lê đôi mách. Người ta khẳng định như đinh đóng cột rằng không thể chửa với mấy cái ông lão ngoài bảy mươi suốt đêm ho khù khụ và cũng không thể chửa với con vượn núi như trong truyền thuyết về vua Lê đại Hành được!? Vậy thì cái cô gái quá lứa lỡ thì ở cái xóm núi hẻo lánh bốn mùa sương phủ đó chửa với ai, vẫn đang là điều bí ẩn.
Gần đến tháng sinh nở, Thông đi lại có vẻ khó khăn hơn. Nhà neo người, cô cố gắng lo toan mọi việc. Trông gương mặt cô vẫn bình thường như những người phụ nữ mang thai sắp đến kỳ sinh nở: Hơi sốt ruột, thoáng chút lo lắng nhưng tự tin, đôi khi hay mỉm cười một mình, ánh mắt ngời lên một niềm hạnh phúc vì sắp được bế trên tay một sinh linh bé bỏng. Nhưng quan trọng nhất là được làm mẹ, điều mà bất cứ ai là phụ nữ cũng đều khao khát.
Thông trở dạ vào một đêm trăng sáng. Khi bà đỡ đón thằng bé con ra khỏi cái cơ thể người mẹ bê bết máu thì bất thình lình có tiếng nổ đì đùng bên phía trại giam. Chỉ trong một khoảnh khắc, phía bên này, một sinh linh bé bỏng chào đời, phía bên kia một kẻ trốn khỏi nơi giam giữ để đi tìm tự do. Tiếng gà gáy cất lên, trời đã rạng đông.
Thằng bé khóc to lắm, cứ gào thét như oan ức điều chi, tiếng khóc như xé vải dội vào vách núi bị phản hồi trở lại vang động cả một vùng. Ở cái nơi heo hút này, tiếng trẻ khóc chào đời mới thiêng liêng và hạnh phúc biết bao! Ôi làng Cùng! Từ nay sẽ có thêm một công dân mới, rồi đây, cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, số phận mẹ con nhà nó vẫn đang còn ở phía trước... Nhưng trước mắt, một cuộc sống mới đã bắt đầu.
Thông nằm ôm con, bụng nóng như lửa đốt. Linh tính báo cho cô biết, tiếng súng nổ đêm qua có liên quan đến Nam. Anh ấy liều lắm, đã nói là làm. Nam đã từng hứa với Thông khi sinh nở, Nam sẽ bên cô. Đêm nay, đúng như cô dự đoán, thằng Bắc, con anh sẽ chào đời. Chắc là Nam trốn không thoát cho nên mới có tiếng súng bắn chỉ thiên vào đêm tối kia. Cầu trời khấn Phật đừng có việc gì xảy ra đối với anh ấy. Nam ơi! Anh là một người tốt nhất trên đời mà em được gặp. Nam ơi! Đừng bỏ em nghe anh...
Cô hình dung lại cái lần gặp gỡ định mệnh ấy.
Hơn chín tháng trước đây, Nam cùng với mười mấy tên tù nhân được trại giam cho chống mảng sang dãy núi phía bên làng Cùng chặt gỗ. Nam là một phạm nhân can án giết người. Án phạt mười tám năm, Nam thụ án được mười sáu năm. Thường những tù nhân sắp hết hạn được ban quản giáo cho ra ngoài khu trại giam lao động, gọi là tù nhân “tự giác”.
Buổi chiều hôm ấy, sau khi đã chặt được mấy cây gỗ to đang kết bè đưa về trại thì một cơn lũ lớn ập về. Nước ào xuống bất ngờ đến nỗi Thông đang chăn dắt mấy con bò không kịp chạy liền bị lũ cuốn theo. Thông không kịp kêu cứu, hai tay chới với giữa dòng lũ xiết. Từ phía trên, một người đàn ông mặc áo tù nhân lao xuống dòng chảy không chút do dự. Khi Thông đang chìm dần, thì cảm giác có một cánh tay đang bế ngang người Thông nâng bổng lên. Thông vội giơ hai tay yếu ớt ôm lấy người ấy rồi sau đó không còn biết gì nữa.
Thông tỉnh dậy, thấy mình đang nằm gần như trần truồng bên đống lửa, cạnh một người đàn ông lạ mặt. Cô hoảng hốt định hét lên thì bên tai nghe giọng nói rất trầm ấm:
- Không việc gì phải sợ! Hôm qua cô bị lũ cuốn, tôi phải vất vả lắm mới đưa được cô lên bờ. Quần áo ướt hết, tôi đã hong khô.
Người đàn ông quẳng bộ quần áo cho cô và nói như ra lệnh: - mặc vào đi, không bị cảm lạnh bây giờ!
Họ đã ở bên nhau trong một cái hang khá rộng rãi suốt mấy ngày liền.
Nam kể cho Thông nghe về cuộc đời của anh. Nam mồ côi cha từ bé. Mẹ anh đã vất vả nuôi anh ăn học. Năm thứ tư anh học đại học thì một sự cố xảy ra đã làm đảo lộn cuộc đời anh.
Vì luôn phải vay nợ để gửi tiền cho con, mẹ anh đã nợ lão giám đốc ngân hàng về hưu rất giàu có số tiền lên đến năm mươi triệu. Một lần trở về nhà muộn, vô tình đứng ngoài chứng kiến cuộc đối thoại giữa mẹ và lão già đó trong gian nhà chật hẹp của mẹ con anh.
- Tôi không thể cho cô khất thêm được nữa. Hôm nay, bằng bất cứ giá nào, cô phải thanh toán cả gốc cả lãi cho tôi. Tổng là năm mươi triệu, không kém một xu!
Mẹ anh vừa khóc, vừa van xin:
- Xin ông cho mẹ con tôi khất thêm một năm nữa. Cháu nó học sắp xong rồi! Cháu học giỏi, ra trường chắc là xin được việc làm. Mẹ con em xin hoàn trả cho cho ông.
Lão già cười hềnh hệch:
- Tôi cóc cần chuyện con cô học giỏi hay không giỏi, tôi chỉ cần cô trả nợ cho tôi. Còn chưa có tiền trả lãi thì...
Hắn lao vào định làm nhục mẹ anh, nhưng gặp phải sự chống cự quyết liệt.
Và anh, một người con hiếu thảo vì cứu mẹ mình, đã can án giết người!
Người ta bỏ qua hành vi cưỡng hiếp của lão giám đốc ngân hàng về hưu kia không biết vì lý do gì!? Còn Nam, phạm tội với hành vi “cố ý giết người”, lãnh án mười tám năm...
Nam đoán chắc những người đi cùng với mình sẽ về báo cáo với ban giám thị trại giam là mình đã chết. Làm sao mà thoát được giữa dòng thác lũ hung dữ như vậy?
Người ta chỉ cần thông báo về địa phương là phạm nhân Phan Hoài Nam bỏ trốn, bơi qua sông và mất tích là xong. Đây là cơ hội cho Nam được tự do.
Nhưng với Thông, cô lại không nghĩ như vậy, cô khuyên Nam nên quay lại trại, thụ án nốt hai năm, hứa khi anh mãn hạn tù sẽ theo anh về quê ra mắt người mẹ già đang ngày đêm vò võ ngóng chờ thằng con trai yêu quý của bà. Bà sẽ vô cùng hạnh phúc khi được bồng đứa cháu nội trên tay...
Nam dặn dò Thông là gắng đợi anh. Bằng giá nào, khi Thông sinh con sẽ báo cho anh để anh được bên người vợ hiền khi vượt cạn, dù là gái hay trai cũng đều đặt tên là Bắc. Ngày cha ra trại, là ngày Bắc Nam sum họp.
Cái đêm thằng Bắc ra đời, Nam nằm trong trại giam như nghe rõ tiếng khóc của nó, lòng người cha xốn xang không bút nào tả xiết. Vì là “tù tự giác” Nam được giam nới lỏng ở phía ngoài chứ không phải nằm trong khu “biệt giam”. Ban ngày đi làm, anh đã quan sát, phía bờ sông có một quảng sông lở rất sâu vào bờ trông như một cái “vịnh” nhỏ. Ban giám thị trại cho rào một bờ rào sát bao ra tận mặt sông. Cái “vịnh” là nơi tù nhân vừa tắm rửa, vừa là nơi xuống gánh nước tưới cho cây cối quanh khu nhà ở của cán bộ quản giáo. Chỉ cần lặn một hơi qua cái hàng rào sắt đó là anh có thể đến bên người vợ hiền và đứa con thơ bé bỏng của anh.
Anh lẳng lặng rời khỏi những người bạn tù ngày làm nặng nhọc giờ đang ngủ say như chết, nhẹ nhàng trườn về phía cái vịnh lờ mờ ánh điện.
Nam có tài bơi lội, nhất là môn lặn sâu. Ở trường đại học, bốn năm liền anh đạt danh hiệu vận động viên bơi lội xuất sắc. Khi lặn xuống đáy lớp hàng rào, anh mới biết mình nhầm thì đã muộn.
Hàng rào sắt được điều khiển bằng từ tính. Ở lớp dưới cùng hàng rào sắt, người ta luồn những sợi thép nhỏ nối với một bộ cảm biến nhiệt. Nếu phạm nhân nào có ý định trốn khỏi nơi giam giữ, khi lặn qua, nhiệt lượng trong cơ thể sẽ tác động lên bộ cảm biến, lập tức tín hiệu được đưa về hệ thống máy tính. Máy tính sẽ phân tích và "lệnh" cho rơ le tự ngắt. Bị ngắt điện, từ tính mất tác dụng, hàng rào sẽ sập xuồng, ngăn cách giữa khu vực vụng và phía ngoài sông.
Khi Nam trườn gần qua thì... Phập!
Nam như một con cá bị xuyên ngang thân chuẩn bị đưa lên lò than để nướng. Anh quằn quại đau đớn dưới đáy sông sâu. Khi đó trên bờ, người ta mới phát hiện thiếu một phạm nhân. Tiếng súng báo động cùng với tiếng khóc thét của đứa con trai vừa chào đời cũng là giây phút cáo chung của cuộc đời anh.
Ngày hôm sau, một cơn lũ lớn từ thượng nguồn đổ về, hàng triệu tấn phù sa trôi qua đã vùi lấp vĩnh viễn xác tên tù nhân xấu số.
* *
*
Thời gian thấm thoát trôi qua, thằng bé con chào đời vào cái đêm cùng với một phạm nhân trốn trại đã sáu tuổi. Thằng bé mặt mũi khôi ngô, da dẻ trắng trẻo như con trai thành phố. Nó đã vào lớp một, hàng ngày mẹ nó đèo xe đạp qua chiếc cầu treo bắc từ làng Cùng sang trại giam. Trong lớp nó học, có cả con các phạm nhân.
Sáu năm trôi qua, thằng bé cứ lớn lên trong vòng tay ôm ấp của mẹ. Nó đâu có biết cái đêm nó cất tiếng khóc chào đời, ở phía bờ sông bên kia, sau lớp hàng rào sắt, cha nó – Tên tù nhân mang số 37 đã trốn nơi giam giữ để sang với nó nhưng số phận phủ phàng, đã phải nằm vĩnh viễn dưới lớp rào sắt. Trước khi giã biệt cõi đời chỉ thốt lên được một câu: Con ơi! Được thoát ra bằng những bọt nước lục bục từ dưới đáy sông lạnh lẽo.
Và mẹ nó, người đàn bà xóm núi vẫn sống âm thầm trong sự chờ đợi. Cứ mỗi chiều khi tiếng kẻng báo hiệu hết giờ làm việc của tù nhân, cô lại đăm đắm ngóng sang phía trại giam. Đêm nào bờ sông bên đó có tiếng súng nổ, người cô cứ giật thon thót, mồ hôi vã ra như tắm...