Ở đó, cuối mùa đông, hoa Thạcham vẫn chưa nở. Mỗi buổi sáng lạnh và mưa phùn rọp trời, Điển ngồi buông thõngchân qua cửa sổ nhà chòi, mặc gió lạnh và đôi khi mưa quất lên mặt. Đôi tay trònrất tròn tung những nắm tấm cho lũ chim sẻ đói ăn và co ro ướt lạnh.


Trong màn mưa, mẹ trở về với mộtbó củi bạch đàn khô nhặt nhạnh phía bờ sông. Mẹ với tay qua cửa sổ đưa cho Điểnnắm lá bạch đàn tay mẹ cóng, nhăn nheo vì mưa lạnh. Khi xưa, khi ba chưa bỏ đi,dù là mùa đông, đôi tay tròn trĩnh và son trẻ của mẹ lúc nào cũng ấm và thơm tho.

Từ ngày cha đi không thèm nhìn mặt Điển một lần cuối, lúc nào mẹ cũng lôi thôilếch thếch trong những chiếc áo cũ kỹ ba để lại. Chỉ gương mặt đẹp của mẹ là vẫnkhông đổi khác, chỉ thêm vài đường chân chim mủi lòng bên khóe mặt, và lúm đồngtiền không còn biết cười như xưa. Hằng đêm, tiếng máy may lạch cạch như tiếngkhóc khan. Buổi tinh mơ, mẹ đã quỳ gối cầu kinh bên hình Đức mẹ.

Nhà Điển lúc nào cũng lắm đàn ông.Họ ngoan ngoãn đứng yên cho mẹ lấy số đo và rất nhiều người nán lại chỉ nóinhững câu chuyện vu vơ, để lén ngắm nhìn gương mặt đẹp như Đức mẹ của mẹ, dùgương mặt ấy bao giờ cũng cúi xuống như mang tội tình. Mẹ Điển bảo: "Đàn ôngphần đông đều tốt, chỉ có đàn bà là hay hư hỏng nhưng lại luôn muốn được coi làđức hạnh".

Có lẽ bởi thế nên mẹ nhận hếtnhững thứ họ mang đến. Có những thứ có giá trị như chiếc kiềng bạc Điển đang đeo,một mảnh lụa huyền nhanh nhánh mẹ may thành một chiếc quần như của một quý bànào đó, rồi lại cất trong rương, không lồng vào đến một lần. Có người còn mangđến một chiếc chăn lông ấm sực, một cái ấm giữ nhiệt để Điển được uống nước ấmcả mùa lạnh, có cả một chiếc gương viền hoa văn cao gần bằng Điển mà mẹ luôn úpmặt vào trong.

Họ là những người đàn ông ngu ngốc, những người đàn ông lặn lộiqua quãng đường đồng sụt sùi lầy lội đến căn nhà chòi của mẹ con Điển để dângnhững món quà nhỏ nhắn, ngọt ngào cho người đàn bà chỉ có những nụ cười cúi đầuvà đứa con gái mong manh cỏ hoa mười tám.

Duy chỉ có một người, ngày nàocũng mang đến một món rau cỏ nhỏ, và lặng lẽ đi về, không đòi hỏi gì ở mẹ conĐiển, dù chỉ một nụ cười. Chỉ một cái với tay, người ấy đã đặt lên cái cửa sổnhỏ nhà chòi khi thì một mớ rau tàu bay, rau sau sau tím, rau ngót rừng, raubướm trắng, đôi lần cả dưa chuột muỗi, quả mâm xôi, dâu dại.

Cỏ hoa mười tám

Đó là một người đàn ông có máitóc màu sương, luôn mặc chiếc áo vải nilon coban rộng. Đôi giày vải cao cổ baogiờ cũng ướt sũng khi vừa ra khỏi rừng ẩm.

Ngày nào cũng vậy, khi vừa nhác thấybóng ông từ xa, thấp thoáng sau những giàn bí xanh giữa cánh đồng, Điển lại vờbình thản làm một việc gì đó, khi thì nhóm bếp, khi thì đơm cúc áo, và đôi lànchải tóc với mảnh gương xe máy nhặt được đâu đó. Mẹ rất thích những món rau dạicòn ướt mướt sương mư suốt màu đông đó. Và không biết tự bao giờ Điển và mẹ trởthành những người ăn chay. Và Điển thấy mẹ đẹp hơn, nhất là khi người làm dấuthánh trước bữa ăn hay trước khi đi ngủ đã thành một lời hát, thủ thỉ, ma mị.

Lễ tạ ơn đến gần, thêm thật nhiềunhững người đặt may áo mới, tiếng đạp máy may của mẹ lạch cạch suốt ngày đêm.Điển đơm cúc, viết lách, rang vừng và nấu canh rau dại trên bếp củi. Các cánhcửa đều đóng sập, chỉ trừ liếp cửa sổ nơi Điển kê đệm ngủ.

Buổi tối, nhắm mắt trong thùngtắm nghi ngút mùi nước chè, Điển nghe thấy tiếng bước chân giày vải lạnh lẽotrên đất ẩm. Từ lâu lắm, từ ngày rất xa xôi, mẹ và Điển không có thêm áo mới.Điển mặc vội chiếc quần váy màu nâu sồng cũ kỹ và chiếc áo sơ mi thùng thìnhnước vải đã phôi pha của cha để lại. Điển thấy mẹ đi như người mộng du xuống cáicầu thang ọp ẹp của nhà chòi.

Trong ánh vàng vọt hắt qua cánhcửa sổ chống lên. Điển vẫn nhìn rõ người đàn ông có mái tóc màu sương, luôn mặcchiếc áo vảo nilon coban rộng và đôi giày vải ướt sũng đứng tựa cây sàu đâu trụilá. Mẹ mặc đẹp thế! Chiếc quần lụa nhánh rộng không che nổi bước chân uyểnchuyển và đôi chân tròn trịa thẳng tắp, chiếc áo vải linen cổ chữ u không biếtmẹ may từ bao giờ, mong manh lạ lùng. Mẹ đẹp, Điển biết từ lâu lắm, nhưng giờĐiển còn nhận ra mẹ còn rất trẻ và rất đỗi yêu kiều. Một nỗi ghen tức vô cớ dânglên làm Điển trào nước mắt.

 Mẹ đang đi về phía người ấy,hai người sẽ xiết chặt lấy nhau, nỗi khao khát cháy ngút ngàn trong mắt họ. "Mẹđi đâu?", Điển gằn từng tiếng một như một gã trai thù hận. Mẹ quay mặt lại, đôimắt thảng thốt. "Bao nhiêu quần áo chưa may. Mẹ còn định đi đâu?", "Nếu mẹ đi,con sẽ đốt cái nhà này luôn!".

Khi bóng người đàn ông khuất saucánh đồng rợp màu xanh của bí leo. Và mẹ lại ngồi đạp máy may suốt đêm. Ngoàitrời mưa gió tơi bời. Trong chăn lông ấm sực, Điển miên man những đâu đâu. Điểnnhớ cũng một đêm mưa gió, cha ném chiếc rương đan bằng cói đựng những kỷ vậtthời con gái của mẹ xuống chân nhà chòi. "Đi đi cho khuất mắt!", cha gầm lên. Mẹngậm nước mắt nhặt nhạnh những tấm hình đen trắng, một lọn tóc đen buộc chỉ đỏ,những lá thư cũ kỹ viết bằng màu mực tím đã nhạt nhòa, cả chiếc áo cổ tròn innhững bông hoa tím nhỏ xíu. Vậy là cha đi, dù trước giờ cha hiền như đất, cưngmẹ và Điển như trứng mỏng.

Chỉ sau một bữa rượu ở xóm đạo.Chiều hôm đó mẹ cũng nhặt củi khô, cha khoác ba lô, nhìn Điển như người dưng,Điển lóc cóc chạy theo, "Về" cha gằn. Cha đi một bước, trầy trật trên bờ cỏ ướt.Điển nhớ cha lên một chiếc xe trông giống như một con bò vàng bị rụng từng mảnglông, nên Điển không nhìn rõ mắt cha có nhìn lại không. Kể từ năm đó, mẹ bỏ cáilệ may áo mới cho Điển mặc Tết.

Những thứ quần áo Điển mặc đềuđược may bằng những thứ vải rẻ tiền, chắp nối từ những mảnh vải thừa của khách.Nhưng Điển vẫn đẹp. Điển không biết mình đẹp cho đến một lần đi nhặt củi bạchđàn khô trên Rừng Gám, thằng Phiên con ông Triều bảo vệ nhìn Điển như thôi miên,tủm tỉm: "Sao Điển lại bỏ học? Ở đây chẳng ai 18 tuổi mà được như Điển. Điển bỏhọc ở nhà đơm cúc áo và hái củi khô, ban đầu Điển nói với mẹ cái ý định rờitrường học như một cách thăm dò ý tứ nhưng rồi khi mẹ hững hờ đáp lại: "Tùycon". Điển sụp đổ. Và Điển bỏ học, đau đớn vì ý nghĩ mẹ đã chối từ chính ước mơcủa Điển.

Cỏ hoa mười tám

Cuối mùa đông, ròng rã nhiều ngàymưa phùn và giá lạnh. Từ lâu lắm, những người đàn ông đã thôi không đến. Mỗibuổi sáng, khi ngồi buông thõng chân qua cửa sổ nhà chòi, mặc gió lạnh và đôikhi mưa quất lên mặt. Đôi tay tròn rất tròn tung những nắm tấm cho lũ chim sẻđói ăn và co ro ướt lạnh. Lâu lắm, người đàn ông đó không còn tới với những nắmrau dại ướt mướt mưa rừng. Điển ngóng lên bìa rừng Gám bao quanh bởi bạt ngànnhững cội Thạch Nam vẫn chưa chịu nở.

Mẹ vẫn mải mê may áo mới, chonhững ai đâu đâu. Tiếng đạp máy may gấp gáp lúc bóng tối bao trùm không ngănđược Điển bước ra cánh đồng. Điển đi trên cỏ ướt, như khi xưa có lần Điển chạytheo cha. Điển nhận ra mình rất ước ao có một manh áo mới. Điển ngược lên Rú Gám.

Điển tìm thấy thằng Phiên đangnằm gác chân đọc sách trong gian nhà vách đất dưới chân Rú, tóc nó điểm lòa xòaxuống trán. "Điển xấu lắm phải không?", Điển sắp khóc" Không! Điển đẹp lắm! Tôichưa thấy ai đẹp như Điển.  Mẹ Điển ngồi xuống chiếc giường đơn của Phiên. "Điểnkhông lạnh à?", Tay Phiên chạm vào vai áo ướt lạnh của Điển. "Điển không biết!Điển đi một mình từ nhà chòi lên đây! Chưa bao giờ Điển một mình đi xa như thế,trong bóng tối".

Điển nhìn xuống manh áo đã phaimàu, lâu lắm Điển mới rơi nước mắt. Phiên đặt trước mặt Điển một tấm gương soi.Nước mắt làm mi Điển cụm lại, nhanh nhánh. Tóc Điển thơm mùi lá bạch đàn vò, môiĐiển trông như hai cánh Thạch Nam đang khép vào nhau, má Điển măng tơ, mắt Điểnhơi xếch nhưng mơ màng. Phiên di chuyển tấm gương. Điển nhìn thấy xương đò mảnhdẻ, bầu ngực thanh xuân và đôi bàn chân của Điển, rất nhỏ và mềm mại như bị bó.Điển ôm chặt lấy Phiên. Bằng những ngón tay lớn, Phiên nắm lấy hai vai Điển: "Phiênđưa Điển về! Cha Phiên về rồi, ngày mai Phiên phải về làng! Sắp Tết rồi! NhàĐiển đã có ai kê bếp nấu bánh chưng cho chưa?". Điển lắc đầu. Suốt đêm, Phiênngồi nhìn ánh lửa bập bùng soi gương mặt tuyệt đẹp của Điển. Gần sáng, Phiênkhoác thêm áo mưa cho Điển, nắm chặt lấy tay Điển, đưa Điển qua cách đồng bí leoxanh trở về nhà chòi.

Chỉ sau một đêm, cây sầu đâu giàđã bắt đầu cuộn lên những lá non. Sau thớ gỗ trơn mượt của nó, Điển nhìn thấyngười đàn ông có mái tóc màu sương, mặc chiếc vải nilon coban rộng, đôi giày vảicao cổ ướt sũng ấy và mẹ ngồi trên bậc thang của nhà chòi. "Con Điển đi đâu?".Người đàn ông quay sang hỏi mẹ. "Em không biết". "Giữa trời giá lạnh này. Con điđâu em cũng không cần biết sao?". "Anh còn hỏi tới nó sao?", mẹ nghèn nghẹn. "Dùthế nào nó cũng là con anh, trong tâm, anh thương nó như thằng Phiên, vì anh yêumẹ nó, đã từng quá yêu mẹ nó". Điển lặng cả người.

Chừng ấy năm, ở căn nhà chòi cáchxa xóm đạo, Điển không biết rằng người đàn ông tên Triều bảo vệ rừng Gám đangngồi với mẹ Điển kia chính là người mà người ta vẫn thường dọa dẫm những kẻ cưatrộm gỗ chính là cha của Phiên. Ông cũng chính là người đã sinh ra Điển. Chínhlà "thằng Triều"  mà trong cái lần đuổi mẹ đi, cha đã rít tên.

Điển tìm mắt Phiên. Mắt Phiêntĩnh lạ. Miệng Phiên rất tươi. Mắt Phiên biết cười. Như Phiên đã biết tất cảnhững điều đó từ rất lâu rồi. Nước mắt chan hòa, Điển đi về phía rừng Gám.

Mưa đã tạnh hẳn, nắng lan tỏatrên cả cánh đồng bí, nắng chạy men theo chấn rừng Gám. Gió đông thổi về, ấm nhưchiếc gối sưởi. Đàn chim sẻ bay theo chân Điển, lích nhích những chuyện đâu đâu.Điển cứ đi, cứ đi về phía ấy. Điển biết mọi đau buồn rồi cũng qua. Lá thư cònnguyên nếp gấp người ta báo cho Điển biết cha Điển đã mất ngay trong lễ tạ ơnbay bay theo chiều gió. Bay đến bìa rừng Gám bao quanh bởi bạt ngàn những cộiThạch Nam tưởng chừng đã sắt lạnh. Ở đó, những bông Thạch nam đầu tiên bung nở,tím ngời. Giữa tiết lập xuân, 18 năm cỏ hoa Thạch nam hân hoan, phiền muộn, lầnđầu tiên trong đời, Điển đọc kinh thành lời.

Theo Võ Thị Hà
Đời Sống Gia Đình