“Cẩu lục kê tam” - con chó nhà ông Hội mộtmực phản đối trí tuệ dân gian, bằng chứng là đã mười năm có lẻ nhưng nó vẫncường tráng. Thảng hoặc có cô chó cái chạy ngang qua, ngay lập tức Tít -vâng, con chó tên là Tít - rít ăng ẳng, tai dựng đứng, chân cào cào chựcphóng lên chạy.

Những lúc ấy cô Hòa con gái ôngHội - vâng, nếu cô Hòa có mặt, vỗ vỗ vào lưng con chó, nựng “Muốn làm bố hả?”.Không biết tiếng người nhưng chắc chắn Tít hiểu điều cô chủ định nói. Tít tiếptục rên rỉ, ngước đôi mắt ướt đầy tâm trạng van vỉ, hy vọng cánh cửa sắt sẽ đượcmở ra. “Bố gì cái thứ chúng mày! Chỉ được cái…” - dầu cô Hòa không nói hết lời,nhưng Tít vẫn cảm nhận được ý tứ của cô, nó cụp tai, mắt nhìn xuống.

1. Trong các giống vật nuôi trongnhà, chó đực là giống hờ hững với con nhất. Đa thê đa tình như anh gà trống thìthỉnh thoảng vẫn cục cục bên đàn gà con cùng cô gà mái, khi tha hạt thóc lúc bớicon giun. Còn cái giống chó đực, cùng lắm phóng tới bên ổ hít hà vài cái xongchạy biến.

Con chó có chữ
Ảnh minh họa

Ngày ông Hội xin Tít về nó mới mởmắt được vài ngày. Ông Hội thả nó xuống đất, bảo “Lưỡi đốm, chân có khoeo, khônlắm đấy!”. Đáp lời ông Hội, con chó tè ngay trên nền gạch bông, miệng rít ăngẳng, loạng choạng dò từng bước và rồi áp vào chân cô Hòa. Có thể, bằng trựcgiác, nó biết cô Hòa là người sẽ thương nó nhất.

Cô Hòa ôm con chó, vỗ nhẹ vàolưng nó. Lập tức cái đầu bé tí xíu rúc vào cánh tay cô Hòa, tiếng ăng ẳng nhỏdần. Cô Hòa pha sữa cho con chó. Tới bữa cơm, cả nhà chưa ai cầm đũa, con chó đãcó phần. Tối, cô Hòa lót tấm thảm cho con chó ngủ trong nhà.

Bà Điệp mẹ cô Hòa bảo: “Coi chừngcưng lắm nó hư”. Ông Hội nhìn cô Hòa rồi nhìn con chó, nhưng không nói gì. Tínhông Hội vốn thế, nói ít, không mấy khi bày tỏ thái độ bằng lời. Ngày còn đi làm,mỗi khi ông mở miệng, cũng chỉ vài câu thôi. Với các đồng nghiệp, nếu không đồngtình với ai ông cũng chỉ im lặng.

Ông Hội thuyết phục người khácbằng thái độ, kết quả của công việc, bằng cách sống của mình. Mấy chục năm hếtlái đầu máy hơi nước tới lái đầu máy diesel, ông không hề để xảy ra một sự cố.Nghe như chẳng có gì đặc biệt nhưng vào thời gian mà phụ tùng vật tư hầu nhưkhông có, máy móc rệu rã đến mức đúng ra phải thanh lý, thành tích của ông Hộikhông mấy người có khả năng đạt được.

Không những thế, khi đồng nghiệpngười này bán dầu người kia chở hàng lậu thì ông Hội không một lần vướng vào cáivòng bất chính đầy cám dỗ ấy. Dù chỉ là công nhân, nhưng ông Hội vẫn thường đượcmời tham gia hội đồng kỷ luật của xí nghiệp khi có người bị đưa ra xét xử.

Người tinh ý sẽ nhận ra ông Hộikhông bao giờ quy kết người phạm lỗi. Ông chỉ phân tích cặn kẽ sự việc với tháiđộ ôn hòa, với cách nói ngắn gọn, lập luận chính xác không thể bác bỏ. Không phêbình con người, chỉ phê bình sự việc, phải hiểu nhân tình thế thái lắm, tinh tếlắm, thương yêu con người lắm mới ứng xử được như ông Hội.

Nhưng khuyết điểm của ông Hội cólẽ là ông đã đánh đồng người khác với mình.

Lần đó phiên họp hội đồng kỷ luậtdo đích thân giám đốc xuất thân cũng là một lái máy, chủ trì. Hầu hết ý kiếnkhông đồng tình với quy kết của giám đốc. Cuộc họp kéo dài hơn thường lệ và khóđưa ra kết luận. Ông giám đốc tính tình nóng nảy nổi cơn lôi đình, đập bàn lahét, tuôn ra khỏi miệng những lời mạt sát thậm tệ

Các thành viên dự họp cúi mặt,ông Hội nhìn chăm chăm vào một chỗ trên bàn. Rồi ông đứng dậy, xin phép rangoài. Ngày hôm sau ông lên phòng tổ chức, lẳng lặng đặt cái đơn xin nghỉ hưunon lên bàn ông trưởng phòng. Mặc ai khuyên nhủ, ông Hội vẫn kiên định. Đơn giảnông không chấp nhận sự xúc phạm đối với một con người. Thế là ông nghỉ, khôngmột giây do dự.

Cầm cái sổ lương hưu non, ông Hộiliếc qua một cái xong đưa cho vợ. Và cũng từ đấy, ông không bao giờ hỏi nhữngđồng tiền tháng tháng bà Điệp lĩnh về, không một lời thắc mắc tại sao trong túimình bao giờ cũng có ít tiền - là do bà Điệp hay cô Hòa nhét vào. Sáng sáng, saumột cuốc đi bộ cho giãn gân cốt, ông Hội lọc cọc đạp xe vác cần đi câu. Ngày aohồ ruộng đồng còn nhiều, ông chuyên câu cá lóc với chiếc cần câu quăng, khônghôm nào không có một hai con đem về.

Đến khi ao hồ bị san lấp làm nền,ruộng đồng thành những khu dân cư, ông chuyển qua câu cá biển, nhiều nhất vẫn làcá mú. Nếu có một ngày thời tiết không xấu lắm mà ông Hội không đi câu, hẳn đâuđó trong thành phố có một giải quần vợt hay bóng chuyền.

Ông Hội là khán giả trung thànhnhất của hai môn thể thao này. Ông xem tất cả các trận đấu, thỉnh thoảng tắclưỡi, thỉnh thoảng vỗ tay, nhưng không bình luận, không chê người này khen ngườikia. Nếu không làm hai việc đi câu và xem thi đấu bóng, chắc chắn là ông Hội tớimột đám giỗ, đám cưới hay mừng nhà mới ai đó.

Mỗi năm, ông Hội mua một cuốnlịch bàn, ghi hết những ngày giỗ chạp của người thân, người quen lên đấy. Đúngngày, cứ theo lịch ông tới thắp hương, không đợi mời, nhưng hiếm khi ở lại dựcỗ. Người ta bảo nhất ông Hội - sống được theo ý mình, ngày ngày làm bạn với cáicần câu, với mặt nước, với gió, với bầy cá trong làn nước xanh thẳm, không vướngvào sự đời đầy chuyện mệt mỏi...

***

Chó là giống ranh mãnh. Cả ngày,khi ông Hội vắng nhà, con Tít tha hồ đùa nghịch, gặm chân bàn chân ghế. Nhưngchiều tối, nhác thấy bóng ông Hội, sau khi đã mừng rỡ ôm chân ông, Tít nằm dàichống cằm lên hai chân trước, vẻ ngoan ngoãn nghiêm túc. Thỉnh thoảng nó liếcnhững cái chân bàn chân ghế nham nhở, rồi liếc ông Hội xem ông có phát hiện rakhông. Nhưng khi ông Hội đến bàn pha ấm trà, lập tức nó ngó lơ chỗ khác, như thểmình chẳng liên quan tới bất cứ việc gì trong ngôi nhà này.

Một lần như thế, ông Hội gọi nótới. Không thể không tới, nhưng linh cảm điều chẳng lành, Tít cụp mắt xuống. ÔngHội lấy tay bệ cằm con chó, bắt nó nhìn vào cái chân bàn nham nhở, bảo “Thôinhé!”. Rồi ông lôi từ trong túi xắc ra một hộp xương giả, loại bày bán ở quầythức ăn dành cho súc vật trong siêu thị, lấy một cái đưa lên mõm con chó, bảo“Thứ này ngon hơn chân bàn chân ghế, nghe chưa!”. Nhìn cục xương y như thật, Títhết hít mũi tới nhìn ông chủ. Rồi nó hớn hở tha cục xương giả tới góc nhà đùanghịch.

Từ đó những cái chân bàn chân ghế hết bị pháhoại. Ông Hội bảo cô Hòa “con chó ngứa răng, không thể cấm nó gặm. Vậy thì hãycho nó gặm theo ý nó”.

Cô Hòa lĩnh hội ý tứ của cha,nhưng không sao bắt con Tít vâng lời. Chẳng những thế, nó luôn làm ngược ý cô.Bà Điệp cười bảo đến con chó cũng lờn mặt thì con gái của mẹ sau này sẽ thế nàođây.

Thật lòng bà Điệp lo lắng chotương lai của cô Hòa. Con gái bà xinh xắn, nhưng quá hiền lành, đến mức nhẫnnhục. Bữa cơm, lấy vội vàng một ít thức ăn, cô Hòa cúi mặt vào bát, ăn đến miếngcuối cùng mới lại ngẩng lên. Quan sát con gái, bà nghĩ thế là khổ. Ăn miếng cơmmà cứ cúi mặt vào bát là thân phận đầy tớ, hoặc chí ít cũng là người đàn bà cơcực.

Bà mắng, cô Hòa toét miệng cười, bảo mặc kệ con.Cô Hòa chưa bao giờ tức giận. Cô như ngọn gió nồm giữa trưa hè, cứ thản nhiênthổi mát vậy thôi.

Hình như con Tít cũng biết thế,nên nó không sợ cô. Một bữa tắm cho con chó, cô Hòa bỗng reo lên “Ơ này, con chócó chữ!”. Bà Điệp đứng ở bếp nhìn cô con gái với ánh mắt vừa hoài nghi vừa diễucợt. Cô Hòa bồng con chó vào chỗ bà Điệp, chỉ vào trán nó.

Đúng là trên nền màu lông vàngnhạt có những vạch ngang dọc màu đen, trông hao hao chữ nho, nhưng khó lòng bảođó là chữ gì. Bà Điệp giễu cợt “Thế nó học lớp mấy rồi?”. Cô Hòa nũng nịu bảo mẹsao cứ hay châm chọc. Nhưng bà Điệp không buông tha “Thế cô bảo đấy là chữ gì?”.Chịu, cô Hòa không biết chữ Hán nên không thể trả lời, nhưng cô tin những cáivạch trên trán con chó ít ra cũng là dấu hiệu tốt lành. Vừa hay có ông thầy chùavốn là chỗ quen biết ghé chơi nghe chuyện, bảo cô Hòa cho ông xem con chó.

Nhìn con Tít từ ngoài sân thủng thẳng đi vào, ôngthầy chùa bảo người có vài ba loại, chó cũng dăm bảy loài. Người có kẻ tiểu nhâncó người quân tử, chó có con cắn trộm có con rất tình nghĩa với chủ. Ông thầychùa xoa đầu con Tít, nhìn cô Hòa đang hồi hộp nuốt từng lời của ông, thong thảbảo trên trán con chó là ba chữ khẩu.

Thấy cô Hòa ngơ ngác, ông thầy chùa tủm tỉm cười, giải thích: “Khẩu là miệng,những ba cái miệng là con chó nhiều chuyện, sủa nhiều lắm đây!”. Cô Hòa bán tínbán nghi, phụng phịu hết nhìn ông thầy chùa tới nhìn bà Điệp, bảo: “Nhưng thưathầy, nó đâu có sủa nhiều ạ!”. Ông thầy chùa vẫn nụ cười trên môi, nhưng hướngmắt sang bà Điệp: “Bây giờ thì chưa, nhưng sau này… Con coi kỹ đi, có phải tớiba cái miệng không?”. Nhưng rồi chừng như e ngại nỗi thất vọng đang tràn trềtrong mắt cô Hòa, ông bỗng nghiêm giọng: “Ta đùa đấy! Một chữ khẩu ở trên, haichữ khẩu ở dưới là chữ phẩm, tức phẩm giá. Hồi nãy nhìn dáng đi của con chó, tađã thấy là nó đàng hoàng”. Rồi ông thầy chùa nói thêm: “Bản thân con chó đãđành, nhưng tính cách của nó còn phụ thuộc vào chủ, như con nít phụ thuộc vào sựgiáo dục của gia đình vậy. Người ta vẫn nói chỉ cần nhìn con chó, đã có thể biếtchủ của nó là người thế nào!”.

***

2. Trẻ con hay nghịch ngợm, thìchó con cũng hay đùa giỡn, lắm khi quá trớn, lắm khi quá mù ra mưa. Thoạt đầuTít đùa với con mèo tam thể, theo bản năng. Nhưng rồi nó tiến tới trò bắt nạt,chén hết thức ăn của mèo trước khi quay lại tô của mình. Sợ bị bắt gặp, lần sauTít láu cá tha con cá nướng của mèo giấu vào một góc, đợi khi vắng vẻ mới lôi rađánh chén.

Của ăn vụng bao giờ cũng ngon.Tít chăm chỉ thực hiện hành vi trộm cắp của mình. Cô Hòa không để ý, nhưng ôngHội khi thấy con mèo ngày càng gầy, bụng teo tóp thì hiểu ngay sự việc. Một bữaông Hội bỏ buổi câu, kín đáo rình và bắt quả tang Tít mắt trước mắt sau xông quadĩa thức ăn của mèo. Con mèo kêu meo meo nhưng biết thân phận, không chống cự.

Ông Hội lập tức bước ra, nắm taiTít kéo nó lại, lấy luôn tô thức ăn của nó đem đổ vào thùng nước gạo. Rồi ôngngồi canh, kiên nhẫn đợi cho con mèo ăn xong phần của mình còn Tít thì bị phạt,nhịn luôn bữa đó. Một hai lần, Tít tiếp thu bài học nhanh đến không ngờ, dầu cóthèm đến mấy cũng không dám lặp lại trò ăn cắp tinh quái. Nhưng sự đời “ăn cắpquen tay, ngủ ngày quen mắt”, Tít không dễ dàng từ bỏ thói hư đem lại cho nó sựsung sướng.

Không dám làm bậy ở nhà, Tít đểmắt sang nhà hàng xóm. Một bữa chạng vạng, ông Hội nghe thấy hàng xóm kêu mấtgà. Ông nhìn Tít nằm xoài trước cửa lòng đầy nghi ngại. Đến khi hàng xóm khẳngđịnh bầy gà lên chuồng vẫn thiếu một con, ông Hội càng sốt ruột. Ông lục lọi vàtìm thấy ngay xác con gà mái tơ bị cắn đứt cổ giấu sau sọt rác, cạnh gốc lộcvừng.

Không chút ngần ngừ, ông Hội raphố mua một sợi dây xích về quàng vào cổ Tít, rồi một tay cầm xác con gà một taydắt Tít sang hàng xóm. Ông Hội xin lỗi và xin đền tiền con gà. Bà hàng xóm chấpnhận lời xin lỗi nhưng từ chối món tiền của ông Hội.

Tít theo dõi cuộc đối thoại từtốn của hai con người, mắt nhìn vào con gà mái tơ đã chết. Nó có vẻ lờ mờ hiểura hành vi của nó thực sự nghiêm trọng. Và tương ứng với sự nghiêm trọng đã gâyra, từ đó cổ Tít có một sợi dây xích, cánh cửa sắt luôn đóng. Những tháng ngàytự do chấm dứt, trừ những lúc ông Hội dắt nó ra ngoài vào buổi sáng.

Sau khi dạo bộ một vòng cùng con chó, ông Hội ghé quán bún đầu ngõ mua cho Títmột ổ bánh mì. Về đến nhà, ông Hội bỏ chiếc bánh mì vào tô cho Tít gặm. Mùi bánhmì vừa ra lò thơm phức. Tít khoan khoái gặm từng miếng nhỏ, nhìn con mèo hau háucặp mắt, miệng không ngừng meo meo thèm thuồng.

***

3. Tít lớn nhanh trông thấy. Chỉchừng hơn một năm, qua một lần thay lông nó đã rất chững chạc. Trên lớp lôngvàng rực, chữ phẩm tuy mờ nhưng vẫn có thể nhìn thấy. Ông Hội tháo dây xích,nhưng vẫn đóng cổng, hàm ý một sự tự do giới hạn. Thảng hoặc có khách tới nhà,Tít sủa cầm chừng, báo cho chủ biết, vì chỉ cần khi bà Điệp hay cô Hòa đánhtiếng là nó lập tức thôi sủa.

Khách ngồi chơi, Tít nằm ngay cửara vào, mắt hướng về phía khách ra ý trông chừng. Chỉ cần vị khách cầm một thứgì nó, như cái quạt giấy trong một ngày hè cúp điện, Tít lập tức chồm lên cảnhgiác. Trường hợp khách đứng lên cáo từ nhưng tay vẫn vô tình cầm cây quạt thìthể nào Tít cũng sủa một tiếng rồi tiến tới cắn chặt ống quần của khách kéo lại!

Chỉ cần thế, cả khách lẫn chủ đềuhiểu. Vị khách tất nhiên bỏ cây quạt giấy xuống bàn và xoa đầu Tít khen ngợi.Cách xử lý sự việc của Tít có vẻ na ná cách xử lý của ông Hội đối với chính bảnthân nó, không nương tay cũng chẳng quá tay.

Ngày qua tháng lại, những cuộc đibộ, chiếc bánh mì buổi sáng, hai tô cơm trưa và chiều, mưa và nắng. Hôm nào trờimưa không ra ngoài được, ông Hội đưa tiền cho con chó, để nó tự đi mua bánh mì.

Ngậm tờ tiền giấy trên mõm, thoắtcái đã thấy Tít về. Nhưng Tít không ăn ngay, nó đợi hoặc ông Hội hoặc cô Hòa đemtô tới. Sau khi đặt chiếc bánh mì vào tô, nó mới tha ra, dùng một chân chặn lênổ bánh mì và bắt đầu gặm. Cô Hòa bảo Tít quá máy móc, nhưng đúng là nó quen ăncó tô rồi, không làm khác được.

Một bữa ông Hội dắt Tít đi bộ,lúc về qua hàng bún mới biết mình quên đem tiền, đành phải mua chịu ổ bánh mìcho nó. Lúc về đến nhà Tít liếm mép nhưng không hề động đến bánh. Ông Hội ngạcnhiên, tưởng con chó ốm. Nhưng không, nó cào cào chân, sủa ủng oẳng vài tiếngnhư đang phân vân điều gì đó, hai mắt đóng đinh vào túi áo ngực ông.

Phải một lúc ông Hội mới hiểu rasự việc. Là Tít muốn xin tiền ông để trả bà hàng bánh. Và rồi, sau khi ngậm tờtiền phóng như bay ra hoàn thành việc mua bán, trở về nhà Tít mới khoái trá híthà ổ bánh.

Người ta bảo có những con chóbiết đi mua báo, đi chợ cho chủ. Có con chó khi thấy chủ ngã ngất biết cách gọingười đến cứu. Có con chó khi xảy ra hỏa hoạn biết phá cửa lôi em bé ra ngoài…Con Tít nhà ông Hội không biết đi chợ, không biết mua báo, không biết báo động,chưa một lần cứu ai, nhưng Tít biết mua bánh mì thì phải trả tiền.

Còn một điều nữa cũng phải nóirõ, Tít là một con chó ta, một con chó ta rất bình thường vẫn luôn gặp đâu đótrên đường.

Theo H.T.D
Thanh niên