Để duy trì môi trườngan ninh biển hòa bình và ổn định, cùng hợp tác và phát triển, các nước ASEANđang từng bước củng cố lực lượng hải quân của mình.

Từ năm 1932, Thái Lan đã có CụcHải quân trong Bộ Quốc phòng. 65 năm sau, họ trở thành nước đầu tiên trong khuvực sở hữu tàu sân bay.

Người Thái không quên Vịnh Thái Lan từng là chiến trường nóng bỏng trong đạichiến thế giới 2. Sự kiện Không quân Nhật Bản đã đánh chìm tuần dương hạm Anhvào ngày 10/2/1941 luôn nhắc nhở Thái Lan phải xây dựng Hải quân tương xứng.

Hải quân Thái Lan: Nước đầu tiên có sân bay ở Đông Nam Á
Tàu sân bay Chakri Naruebet lướt sóng cùng 2 tàu hộ tống.

"Niềm vinh quang củaVương triều Chakri"

Sau nhiều năm chờ đợi, tháng 8/1997, tàu sân bay A. Chakri Naruebet, do hãngBadaneron của Tây Ban Nha đóng, đã được biên chế trong lực lượng Hải quânThái Lan với số hiệu 911. Việc này đánh dấu mốc Thái Lan chính thức trởthành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á, thứ 2 châu Á (sau Ấn Độ), và thứ 9trên thế giới sở hữu tàu sân bay.

Với lượng giãn nước khi đầy tải lên tới 11.480 tấn, có đường băng dài174,6m, rộng 27,5m, vũ khí chính của tàu là 15 máy bay (9 máy bay cánh cốđịnh cất cánh đường băng ngắn AV-8S Harrier, 6 trực thăng S-70B Sea Hawk).Vũ khí khác là hệ thống tên lửa phòng không Mk41 LCHR với tên lửa SeaSparrow, 3 ống phóng tên lửa Mistral, 4 bệ pháo 6 nòng 20mm Vuncan, 2 bệpháo 30mm…

Thủy thủ đoàn trên tàu Naruebet gồm 455 quân nhân hải quân, 146 quân nhânkhông quân hải quân. Từ khi được biên chế, Naruebet đã thực hiện nhiều nhiệmvụ quân sự và dân sự.

Hải quân Thái Lan: Nước đầu tiên có sân bay ở Đông Nam Á
Chiến đấu cơ lên thẳng cánh cố định Harrier. Trên tàu sân bay Chakri Naruebet có 9 chiến đấu cơ loại này túc trực.

Đặc biệt ưu tiên hảiquân

Để lực lượng trên nhanh chóng tiếp quản, làm chủ và vận hành tàu Naruebet,Hải quân Thái Lan phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, tính từ năm1932 khi Bộ Quốc phòng nước này thành lập Cục Hải quân với quân số 2.000người với con số không ngừng tăng. Đến năm 1939, có tới 10.000 quân nhânphục vụ cho Hải quân Thái Lan. Những năm 1950-1960, Thái Lan có 27 hải đội,hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ, quân số chiếm 22% quân đội. Cuối năm 1971, Hảiquân Thái Lan có 25.000 người, trong đó, có lực lượng hải quân đánh bộ biênchế thành 2 trung đoàn.

Giữa những năm 1980, Thái Lan thực hiện chương trình mua sắm vũ khí được coilà “lớn nhất và tham vọng nhất trong lịch sử”. Giai đoạn 1983-1986, Hải quânnước này nhận được hàng chục máy bay tiêm kích, trực thăng chống ngầm, mộtsố tàu khu trục, đổ bộ, quét mìn, tuần duyên. Đến năm 1990, trong số 220 tàucủa Hải quân Thái Lan có đến 129 tàu chiến đấu.

Bên cạnh hoạt động mua sắm, ngành công nghiệp quốc phòng Thái Lan cũng thuđược những kết quả khả quan trong lĩnh vực hải quân như nghiên cứu, cải tiếnthành công các tên lửa hải đối hải Harpoon, Sea Sparrow, Exocet, thủy lôiStinger, đóng tàu tuần tiễu cỡ nhỏ, tàu đổ bộ cỡ trung và nhỏ, đặc biệt tàuđổ bộ xe tăng 3.000 tấn... Giai đoạn 1991 đến nay, cứ 3-5 năm, Hải quân TháiLan lần lượt thay vũ khí phù hợp với chiến tranh công nghệ cao. Đặt trongbối cảnh Thái Lan tiến hành giảm quy mô lực lượng vũ trang, có thể thấy hảiquân nước này nhận được đãi ngộ và ưu tiên đặc biệt.

Hải quân Thái Lan: Nước đầu tiên có sân bay ở Đông Nam Á
Tàu sân bay Chakri Naruebet (trên) song hành cùng tàu sân bay Kitty Hawk của Mỹ.

“Từ ven bờ ra đạidương"

Đến nay, Hải quân Thái Lan có chính thức 63.000 quân nhân, chịu sự chỉ huycủa Bộ Tư lệnh Hạm đội tác chiến (3 hải đội và 10 đội tàu phục vụ, hoạt độngtrên 3 vùng hải quân, 3 ban chỉ huy trên sông), Bộ tư lệnh Hải quân đánh bộ(1 sư đoàn, 1 trung đoàn độc lập, lực lượng đặc biệt…), Bộ Tư lệnh Phòngkhông và Bảo vệ bờ biển (3 trung đoàn), Bộ chỉ huy Không quân Hải quân (1 sưđoàn, 1 trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn tác chiến điện tử…), Bộ tư lệnhCảnh sát biển (2 tiểu đoàn dù, 22 đại đội cảnh sát đặc biệt, 70 đại đội cảnhsát biên phòng).

Theo kế hoạch quốc phòng 10 năm của Thái Lan, từ 2009-2018, hải quân nướcnày sẽ thực hiện chương trình “từ ven bờ ra đại dương”. Để làm điều đó, TháiLan sẽ phát triển binh chủng tàu ngầm (vốn bị trì hoãn do cuộc khủng hoảngkinh tế 1997), đồng thời tiếp tục đầu tư mua sắm tàu khu trục, hộ tống.

Dựa vào tiềm lực của mình, Thái Lan chủ trương tự đóng các chiến hạm và tàuđổ bộ cỡ nhỏ. Với 3 cơ sở công nghiệp quốc phòng: Nhà máy đóng tàu Hoàng giaRTN (có khả năng đóng các pháo hạm, nâng cấp vũ khí nhập ngoại, nghiên cứuđóng tàu ngầm cỡ nhỏ), Ital – Thái Marine (đóng tàu đổ bộ cỡ trung, có thểđóng chiến hạm mang tên lửa có lượng giãn nước 1.000 tấn), Nhà máy Bankok(đóng tàu trinh sát, tàu nghiên cứu biển, tàu đổ bộ nhỏ), Thái Lan hy vọngsẽ vừa trang bị cho hải quân đồng thời, tìm đường xuất khẩu chiến hạm ra thịtrường vũ khí thế giới.

Để chuẩn bị “ra biển lớn”, Thái Lan còn cho nâng cấp các căn cứ hải quân nhưBangkok, Shongkhla, Phanga, Phuket và Mataphut… Trong đó, trọng tâm là căncứ Satahip cho phép tàu quân sự trên 10.000 tấn ra vào thuận lợi, cùng cáccăn cứ khác.

Bên cạnh đó, Hải quân nước này tiếp tục hoàn thiện cơ cấu chỉ huy và chấtlượng quân đội, bổ sung học thuyết quân sự phù hợp với tình hình mới, chútrọng hệ thống kiểm tra, thông tin liên lạc, tăng cường huấn luyện diễn tậpvới 1 bên và nhiều bên.

Hiện nay, Hải quân Thái Lan có 190 tàu các loại, trong đó, tàu chiến đấu mặt nước là 20 (1 tàu sân bay, 10 tàu hộ vệ, 8 tàu tên lửa, 9 tàu hộ tống), 90 tàu tuần tiễu trên biển và ven bờ, 20 tàu quét mìn, 40 tàu và phương tiện đổ bộ (có 6 tàu độ bộ xe tăng LST), 15 tàu phục vụ.
Lực lượng Không quân Hải quân Thái Lan có 110 chiếc (15 chiếc trực chiến trên tàu sân bay, 95 chiếc còn lại trú tại các căn cứ ven bờ)
Hải quân đánh bộ Thái Lan có 60 xe thiết giáp chở quân, 50 pháo 155mm và 105mm, 30 bệ tên lửa chống tăng…
Cảnh sát biển Thái Lan có 140 tàu xuồng (20 tàu ven bờ, 3 tàu xa bờ, 30 xuồng ven biển và 85 xuồng trên sông).


Theo Đất Việt