Sau quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng USD/VND thêm 9,3%, khốingoại đã có chuỗi bán ròng liên tiếp trên sàn chứng khoán niêm yết HOSE. Liệuđây có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay đó chính là tín hiệu cảnh báo cholàn sóng dòng vốn ngoại rút khỏi TTCK Việt Nam?
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán các nướcmới nổi như Việt Nam còn được gọi dưới thuật ngữ “hot money” (tiền nóng) đểnhấn mạnh tính chất đầu cơ và thiếu bền vững. Dòng tiền này có vai trò quantrọng trong việc phát triển và hoàn thiện những thị trường mới. Tuy nhiên,nếu không có một cơ chế hợp lý kiểm soát dòng vốn này thì dễ mở đường chonhững cuộc tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt, dẫn đến những cuộc khủnghoảng tài chính như đã xảy ra tại châu Á năm 1997.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ trong năm 2007nhờ dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đổ ồ ạt vào kênh đầu tư mới mẻnày. Nhưng ngay năm sau đó, trong bối cảnh thị trường tài chính toàn cầu chaođảo và những trở ngại kinh tế vĩ mô trong nước, dòng vốn FII đã chững lại và códấu hiệu thoát ra khỏi những tài sản rủi ro như chứng khoán. Điều này càng đẩythị trường Việt Nam xuống sâu hơn trong xu thế giảm chung của thị trường chứngkhoán toàn cầu.
Đây là một bài học không bao giờ quên với nhiều nhà đầu tư cũngnhư những cơ quan quản lý thị trường. Năm 2010, dòng vốn ngoại đã trở lại thịtrường chứng khoán Việt Nam một cách khá mạnh mẽ bất chấp những thông tin vĩ môkhông thuận lợi. Tổng giá trị mua ròng của họ trong năm đối với cổ phiếu niêmyết đạt trên 16 nghìn tỷ đồng, vượt xa con số 2,792 tỷ đồng năm 2009 và 5.100 tỷđồng năm 2008
Trong các báo cáo triển vọng thị trường chứng khoán năm 2011,nhiều chuyên gia đều đồng tình đặt kỳ vọng vào dòng vốn ngoại sẽ tạo ra nhữngchuyển biến tích cực cho thị trường nói chung.
Thống kê giao dịch khối ngoại trong gần 2 tháng đầu năm (tính đến 15/2) đã chonhững tín hiệu khả quan, tổng giá trị vốn mua ròng lên tới 1.741,23 tỷ đồng.
Tuynhiên, trong thời gian gần đây, khối ngoại đã thực hiện bán ròng nhiều phiênliên tiếp (từ 10/2-15/2) với tổng giá trị bán ròng trên cả 2 sàn đạt 64,73 tỷđồng. Nếu so sánh con số này với giá trị mua ròng trong thời gian qua thì quả làcon số nhỏ bé và không đáng quan ngại, nhưng hiện nay giới đầu tư đang đặc biệtquan tâm đến vấn đề tỷ giá và tập trung tìm ra mối quan hệ nhân quả giữa haihiện tượng cùng xảy ra ở một thời điểm này.
![]() |
(Ảnh minh họa: vinacorp.vn) |
Theo một số quan điểm “thận trọng” cho rằng, trong vài phiên gần đây, khối ngoạiđã chuyển từ trạng thái mua ròng sang bán ròng là phản ứng của nhà đầu tư nướcngoài đối với việc điều chỉnh tỷ giá vừa qua. Đồng thời viện dẫn kinh nghiệm từcuộc khủng hoảng tài chính tại Thái Lan năm 1997 để so sánh.
Vậy thực chất hànhđộng bán ròng nhỏ giọt này có phải bắt nguồn từ việc điều chỉnh tỷ giá, hay đơnthuần đó chỉ là hoạt động cơ cấu danh mục bình thường của các quỹ đầu tư nướcngoài? Để tìm được một câu trả lời hợp lý, chúng ta cần quan sát kỹ hơn thờiđiểm chuyển sang bán ròng và động thái mua bán trên từng nhóm cổ phiếu.
Thứnhất, khối ngoại đã giảm dần giá trị mua ròng từ phiên 8/2 và bắt đầu bán ròngtừ phiên 10/2, đến ngày 11/2 mới công bố điều chỉnh tỷ giá. Như vậy, động tháibán ròng xuất hiện sớm hơn quyết định điều chỉnh tỷ giá. Thứ hai, nhóm cổ phiếubị bán ròng mạnh là những mã đã bị bán ròng trước đó và bổ sung thêm một số mãcó kết quả kinh doanh kém hoặc bị ảnh hưởng lớn từ việc điều chỉnh tỷ giá.
Trongkhi đó, họ vẫn tiếp tục mua vào những mã tiềm năng hoặc những mã cổ phiếu “côngcụ” của các quỹ ETF. Thứ ba, sau bốn phiên bán ròng liên tiếp, họ đã trở lạitrạng thái mua ròng với giá trị lớn trên sàn HOSE. Tóm lại, động thái bán ròngvừa qua có tính chất cơ cấu danh mục đầu tư đơn thuần và chưa thể khẳng định đâylà hành động rút vốn để hạn chế rủi ro.
Nhìn ra xa hơn, liệu Việt Nam có trở thành Thái Lan thứ 2 tại châu Á? Đánh giá 2bối cảnh kinh tế tại Việt Nam hiện nay và tại Thái Lan năm 1997 có một số điểmtương đồng như áp lực lạm phát gia tăng, đồng nội tệ đang trong xu thế mất giátương đối mạnh, trong khi Chính phủ cố gắng giữ giá trị đồng nội tệ vào dollarMỹ bằng một dự trữ ngoại hối tương đối mỏng!
Điểm khác biệt là Thái Lan cũng nhưmột số nước châu Á thời điểm đó đang trong thời kỳ hưng thịnh với tốc độ tăngtrưởng bình quân hàng năm lên tới 9%, trong khi hiện nay Việt Nam nói riêng vàkinh tế toàn cầu nói chung vừa mới thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tàichính với một tốc độ tăng trưởng còn chậm chạp, mọi chính sách tiền tệ ở mứcthận trọng và linh hoạt chứ không nới lỏng như Thái Lan thời kỳ trước.
Trước năm1997, tỷ giá của USD/THB của Thái Lan gần như được kìm hãm cố định ở khoảng24-25 baht/USD, ngược lại, tỷ giá USD/VND của Việt Nam đã được điều chỉnh dầndần qua từng năm với mức tăng khoảng 5-7%/năm.
Do vậy, áp lực tỷ giá của Việt Nam hiện nay không thể đặt ngang với áp lực tỷgiá của Thái Lan năm 1997. Cuối cùng, quan trọng nhất là các nhà điều hành chínhsách của Việt Nam cũng đã thấm nhuần bài học từ Thái Lan và chắc chắn không baogiờ đi theo “vết xe đổ” của nước bạn khi thực hiện thả nổi đồng baht.
Để Việt Nam trở thành điểm đến của đầu tư nước ngoài và giữ chân khối ngoại,chúng ta cần phải làm rất nhiều so với những gì hiện nay. Chỉ có cổ phiếu giá rẻchưa thể thu hút đầu tư mà cần sự ổn định từ vĩ mô, minh bạch từ sự điều hànhthị trường và giảm thiểu rủi ro tỷ giá trong tương lai.
Chu Đức Tuấn - Phó Phòng NC-PT, CTCK Phố Wall
Theo DĐDN