Trước tình trạng một số tổ chứctín dụng lách trần lãi suất tiền gửi 14%/năm bằng các hợp đồng ủy thác vốn đầutư, có ý kiến cho rằng, Ngân hàng Nhà nước nên cân nhắc chọn giải pháp giải tỏalãi suất tiền gửi, nhưng khống chế lãi suất tiền vay.  

Lách trần lãi suất

Nếu như hai tuần cuối của tháng3/2011, thị trường 2 (liên ngân hàng) căng thẳng về lãi suất và quy mô giao dịchbị thu hẹp thì tuần đầu tháng 4/2011, thanh khoản đã ổn định hơn, dù lãi suấtvẫn cao.

Nhiều cán bộ của một số ngân hàng thương mại lớn thường xuyên hoạt động trên thịtrường 2 hài hước rằng: “Chúng tôi đang… thất nghiệp”. Lý do của sự nhàn hạ nàyđược hiểu là hiện nay, các ngân hàng ít vay mượn của nhau do đã tích đủ dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán.

Còn vì sao lãi suất thị trường 2 chưa giảm làbởi lãi suất huy động thị trường 1 nếu tính bình quân các kỳ hạn vẫn từ 16% trởlên. Các ngân hàng dùng nhiều “chiêu” để lách trần lãi suất huy động 14%/năm màhình thức “ủy thác vốn đầu tư” áp dụng cho khách hàng lớn hoặc khách hàng tổchức là một ví dụ.

Theo đó, khách hàng ký với ngân hàng hợp đồng “ủy thác vốn đầu tư”, hình thứcnày không giống như sổ gửi tiết kiệm nhưng bản chất lại giống hệt và muốn lãisuất bao nhiêu là do hai bên thỏa thuận.

Một kiểu khác tinh vi hơn để áp dụng cho khách hàng cá nhân là ghi “khống” vàosổ tiết kiệm. Ví dụ, khách hàng gửi 100 triệu đồng, muốn nhận lãi suất 17%/nămthì ngân hàng có thể ghi vào “dư có” trên sổ tiết kiệm là 103 triệu đồng, cònlãi suất trên sổ vẫn là 14%/năm. Dĩ nhiên, hình thức này còn kèm theo thỏa thuậnhai bên nếu khách hàng rút tiền trước hạn.

Tất nhiên, các ngân hàng cũng rất cảnh giác để tránh “sập bẫy” thanh tra, nếukhông phải người quen, hoặc được giới thiệu từ mối quen thì khách hàng không thểgửi được ở mức giá vốn như nói trên.

So sánh lãi suất tiền gửi với lạm phát, một chuyên gia của Hiệp hội Ngân hàngnói rằng: lãi suất huy động 14%/năm đã từ rất lâu và không phù hợp với thực tếhiện nay, nhất là khi ADB dự kiến lạm phát năm 2011 của Việt Nam có thể lên tới13%.

Lãi suất: Chặn đầu vay thay cho đầu gửi?
Hết quý 1/2011, tổng huy động vốn toàn hệ thống chỉ tăng 1,5% nhưng tiền gửi VND giảm 2,8%, còn tiền gửi ngoại tệ tăng (Ảnh: VnEconomy)

Vị này tínhtoán, so sánh tháng sau với tháng trướctrong 3 tháng quý I/2011, thấy rằng: lạmphát tháng 1 tăng 1,74%, tháng 2 tăng2,09%, tháng 3, tăng 2,17%. Trong khi đó,lãi suất tiền gửi chỉ 14%/năm, chia đềucho 12 tháng thì  mỗi tháng chỉ1,16%. “Tất nhiên, các cơ quan điều hànhsẽ phải tìm mọi cách hãm tốc độ tăng lạmphát. Không ai để tốc độ tăng lạm phátcả năm như mấy tháng đầu năm nhưng nhìnvào thực tế lạm phát mấy tháng qua,người gửi tiền không so kè mới lạ”, vịnày nói.

Xung quanh chuyện lách trần lãi suất,một lãnh đạo của VietinBank cho rằng:“Đó chưa phải là xu hướng”. Theo ông,một số trường hợp dâng lãi suất lên làdo họ quản lý thanh khoản chưa tốt, quảnlý tài sản nợ/có và dự phòng thanh toánđối với những tài sản có tính lỏng caocòn yếu hoặc một số ngân hàng lớn nânglãi suất để giữ chân khách hàng. 

Đảo chiều khống chế?

Liên quan đến vấn đề khống chế trần lãisuất huy động 14%/năm, giám đốc chinhánh một ngân hàng thương mại tại HàNội cho rằng, đến giờ vẫn không hiểu vìsao Ngân hàng Nhà nước không chặn lãisuất tiền vay mà lại chặn lãi suất tiềngửi. Vì, nếu chỉ chặn “đầu vào”, buông“đầu ra” thì lợi nhuận ngân hàng hiệnđang ở mức quá lớn, giới hạn chênh lệchlãi suất huy động và cho vay (NIM) cóthể lên tới 9%!

“Một nguyên lý là chống lạm phátthì phải tăng lãi suất, nhưng với trần lãi suất huy động 14%/năm thì lạm phátkhó giảm vì lãi suất cho vay vẫn… vô tư. Chưa kể, tỷ giá cũng là yếu tố tác độngtới việc giảm lạm phát nhưng hiện tại, tỷ giá đã tăng tới 9,3% từ đầu năm đếnnay”, ông này nói thêm.

Trước thực tế đó, vị chuyên gia của Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, Ngân hàng Nhànước nên cân nhắc “trần lãi suất huy động 14%/năm” đang áp dụng hiện nay.

“Theo tôi, nên mở toang lãi suấthuy động thị trường 1, khống chế lãi suất cho vay ở mức 18%/năm và nền kinh tếbuộc phải chấp nhận lãi suất cao. Ngân hàng Nhà nước chỉ cần giữ hai “chốt”:tăng trưởng tín dụng dưới 20% và hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu) khôngvượt quá 9%”, người này nói. “Lúc đó, ngân hàng thương mại dù có huy động về thìcũng chỉ giải quyết nhu cầu thanh khoản chứ không phải cho vay ra và tự khắc lãisuất sẽ giảm. Làm vậy, Ngân hàng Nhà nước vừa đỡ tốn “mồi” cung ứng tiền vừachống lạm phát có hiệu quả”.

Tất nhiên, nếu theo lời “tư vấn” này thì Ngân hàng Nhà nước phải có cơ sở bảo vệquan điểm khống chế lãi suất cho vay ở mức nào.

Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước từng khống chế lãi suất cho vay bằng Quyết định 16,theo đó, “lãi suất cho vay không được vượt quá 150% so với lãi suất cơ bản”nhưng quy định này đã được dỡ bỏ do quá nhiều bất cập.

Trong Luật Ngân hàng Nhànước mới ban hành cũng chỉ ghi một câu rất chung chung: “Ngân hàng Nhà nước côngbố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hànhchính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. Vậy nên, cơ sở nào để khống chế lãisuất cho vay là điều không dễ dàng đối với Ngân hàng Nhà nước trong lúc này.

Liên quan đến câu chuyện “trần lãi suất”, vị chuyên gia nêu trên cũng đưa ranhững con số đáng lưu tâm: hết quý 1/2011, tổng huy động vốn toàn hệ thống chỉtăng 1,5% nhưng tiền gửi VND giảm 2,8%, còn tiền gửi ngoại tệ tăng. Đặc biệt,trong khi tiền gửi VND của dân cư tăng 5,7% thì tiền gửi VND của tổ chức giảm11,7%.

Như vậy, phải chăng lãi suất VND đang là một trong nhiều nhân tố góp phần làmcho tiền gửi VND bị giảm? Và nếu tiền gửi chảy vào hệ thống ngân hàng không nhưmong muốn, nhất là trong điều kiện lãi suất huy động bị khống chế thì Ngân hàngNhà nước muốn thực thi các công cụ điều hành cũng rất khó.

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy