Nói theo quy luật cũng đúng,diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 vẫn cao ở đầu và cuối năm, thấp ởgiữa năm.
Nhưng bảo bất thường có thể chẳng sai, khi có đến nửa số tháng trong năm2010, mức tăng CPI đã vượt qua 1%. Các tháng từ 9 đến 11, chỉ số giá tiêu dùngđều đạt kỷ lục của 15 năm trở lại đây.
Diễn biến CPI năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức chênh lệch giữa thángtăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm caonhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12, trong khiđáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ “bay là là” quanh mức 0%, xác định kỷlục ngược với xu thể kể trên.
Xuống chậm trong quý đầu năm, “ru ngủ” bằng mức tăng rất thấp giữa năm, để rồilại dốc ngược rất sớm trong tháng 9, kéo dài mức tăng trên 1% liên tiếp 3 thángsau đó, diễn biến CPI năm 2010 hình thành nên hai thời điểm thay đổi của cảmnhận về lạm phát, sau các cú đột biến “lao dốc” và “bốc đầu”. Lo ngại lạm phátmột lần nữa được “treo” vào mức tăng 1,98% của tháng 12/2010.
Đột biến thứ nhất: Xuống chậmsau Tết
Tết Canh Dần rơi vào đầu tháng 2/2010, các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đềutrên 1% và tiến gần 2% cũng không phải quá bất thường, nhưng khác biệt trong nămnay lại rơi vào tháng 3, khi chỉ số giá tiêu dùng không chịu xuống mạnh như cácnăm trước.
Tâm lý thị trường sau một năm 2009 lạm phát tương đối ổn định dường như khôngmấy lo ngại với các mức tăng 2 tháng trước Tết Nguyên đán. VnIndex thể hiện xuhướng bật lên sau khi chỉ số giá tiêu dùng các tháng 1 và 2 được công bố. Từđiểm đáy đầu tiên vào ngày 22/1, khoảng 477 điểm, chỉ số VnIndex có một chu kỳvận động đi lên, đến 15/3 đạt khoảng 532 điểm (tăng xấp xỉ 10%).
Tuy nhiên, tháng 3 bắt đầu “hứng chọn” các đột biến. Khởi động cho loạt nguyênnhân tác động này là việc Ngân hàng Nhà nước ngày 10/2 đã công bố điều chỉnh tỷgiá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND tăng hơn 3% so với trước đó, đưamức giá trần theo quy định lên 19.100 VND/USD.
Trong khi đó, nhiều mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý cũng chính thức đượccho phép điều chỉnh lên mức giá mới, đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3: giá than báncho điện tăng đến 47% tùy loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCMtăng khoảng 50%.
Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân, ngay trướcngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2, giá xăngđột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6% cùng lúc dòng xe cộ ùn ùn đổ về cácthành phố. Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhautăng giá.
Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) Nguyễn Tiến Thỏa khi ấy tỏ ra lo ngại.“Có thể đợi đến khi có chỉ số tăng giá của tháng 3 thì chúng ta sẽ có những điềuchỉnh về chính sách tiền tệ, đầu tư, chi tiêu của Chính phủ cho phù hợp”, ôngphát biểu với báo giới.
Ngay sau đó, từ ngày 15/3 những thông tin về khả năng CPI tháng sau Tết tăng caođã được một số nguồn tin dự báo sớm. Con số chính thức sau đó chốt lại mức tăng0,75%, chỉ kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm 2004 và 1996.
So với tháng 12/2009, CPI tháng 3/2010 đã tăng 4,12%. Ở những năm bình thường,chỉ số giá tiêu dùng quý 1 thường chiếm khoảng một nửa mức tăng cả năm. Do vậy,lo ngại đột ngột dấy lên. Nửa cuối tháng 3, thị trường chứng khoán chứng kiếngiai đoạn xụt giảm mạnh, chỉ số VNIndex về đáy vào ngày 31/3, ở mức dưới 500điểm, mất khoảng 6% so với đỉnh 15/3.
Trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 3, thông điệp về hướng chính sách trongnăm được phát đi, theo đó sẽ tập trung mạnh vào ổn định nền kinh tế, đặc biệt làkiềm chế lạm phát. Một mục tiêu quan trọng đặt ra lúc bấy giờ là tăng trưởngcung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối năm 2009; tăng trưởng tín dụng 25%.
Sau này nhìn lại, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinhtế trung ương đặt câu hỏi, giả sử chỉ tiêu phụ về tiền tệ được đặt ra để đảm bảotăng trưởng cả năm 6,5% và lạm phát dưới 7%, và tính toán đó là đúng, thì đánglẽ phải giữ cho được các chỉ tiêu trên. Điều này đến cuối năm đã không thực hiệnđược.
![]() |
Diễn biến CPI các tháng trong 2 năm 2009 - 2010 |
Đột biến thứ hai: “Giấc ngủ”kéo dài
Nhưng việc “nằm sàn” trong 5 tháng kế tiếp cũng là một đột biến đáng nhắc đếncủa lạm phát năm nay. Sau CPI tháng 3 được công bố, nhiều phân tích cho rằngđỉnh điểm lạm phát năm nay có thể rơi vào tháng 4-5, với lập luận rằng mức tăngmạnh cung tiền và tín dụng cuối năm 2009 (tăng khoảng 29% và 38% cả năm) cộng độtrễ khoảng 5-7 tháng sẽ hợp với thời điểm ấy.
Tuy nhiên, kịch bản đã không đúng như nhiều suy luận và cảnh báo sớm. Trongkhoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng rấtthấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét về cao độ,các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004 đến nay.
Tăng thấp giai đoạn giữa năm, thậm chí có năm giảm một số tháng, không phải làbất thường do sản xuất ở giai đoạn này đã vào guồng, cung cầu không có đột biếnlớn. Tuy nhiên, mức tăng thấp kỷ lục của các tháng giữa năm 2010 có sự khác biệt,một phần nhờ hiệu quả các chính sách vĩ mô.
Một ví dụ, trong cả thời kỳ dài, việc kìm giữ giá xăng dầu được thực hiện rốtráo với quỹ bình ổn liên tục được sử dụng trong những thời điểm có biến động.Thậm chí, Bộ Tài chính vào đầu tháng 6 còn ban hành công văn yêu cầu các doanhnghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối giảm giá đối với các mặt hàng xăng dầu. Độngthái này ngay lập tức có tác động hạn chế tăng CPI tháng 7 ở mức rất thấp nhưnói trên.
Cũng giai đoạn này xuất hiện sự điều chỉnh đáng kể ở các tương quan ảnh hưởngđến giá tiêu dùng. Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trongtháng 4 và đến tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cùng kỳ, đi kèm với nó là chỉsố tồn kho giảm tốc. Một tham khảo đối với ngành công nghiệp chế biến, chỉ sốtồn kho tăng 27,5% so với cùng kỳ vào tháng 5.
Tuy nhiên, xu thế này thay đổi nhanh chóng. Tổng mức bán lẻ so với cùng kỳ liêntục trượt xuống mức tăng thấp hơn qua từng tháng, nguyên nhân là do cung tiền vàtín dụng không hỗ trợ chi tiêu trong thời gian này. Vào cuối tháng 7, tổngphương tiện thanh toán M2 và tín dụng mới đạt mức tăng gần 13% so với cuối năm2009, chỉ bằng một nửa so với mục tiêu cho phép.
Lập tức, chỉ số tồn kho công nghiệp chế biến tăng lên 38,6% vào tháng 6 và giữ ởmức trên 37% trong hai tháng kế tiếp. Ở vào thời điểm đó, nhiều phân tích chorằng, với khả năng tiêu thụ khó khăn và tồn kho lớn, giá cả nhiều loại hàng hóađang bị kìm lại và có thể bật lên bất cứ lúc nào. Vấn đề là cần một cú hích từdòng tiền đổ thêm vào nền kinh tế, điều này sau đó thành hiện thực.
Không được hỗ trợ từ tiêu dùng, tồn kho tăng cao gây sức ép lên sản xuất. Tăngtrưởng giá trị sản xuất công nghiệp theo tháng không tạo được bứt phá kể từtháng 4. Mức tăng trưởng đi xuống dần và đến tháng 10/2010, giá trị sản xuấtcông nghiệp đã giảm 3,4% so với tháng 9.
Để hỗ trợ sản xuất, trong giai đoạn này Hiệp hội ngân hàng nỗ lực giảm lãi suấtthông qua thỏa thuận với các thành viên. Tuy nhiên sau một thời gian khá dài,lãi suất chỉ được điều chỉnh với biên độ rất thấp, không hỗ trợ được nhiều chodoanh nghiệp nhưng vẫn đủ góp sức kìm lạm phát.
Với vai trò “hàn thử biểu” của nền kinh tế, trong suốt giai đoạn từ đầu tháng 5đến cuối tháng 8, VN-Index kéo một đường dài sụt giảm. Đạt đỉnh vào ngày 5/5 ởgần 549 điểm, sau 4 tháng liên tục đi xuống, đến 25/8 VN-Index chạm đáy ở mức427 điểm, mất trên 22%.
Đột biến thứ ba: “Bốc đầu”tăng mạnh
4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần. Điểm lạicác nguyên nhân tác động đến lạm phát trong giai đoạn này, yếu tố chủ quan khôngít hơn khách quan.
Vào khoảng tháng 8, sự đổi hướng chính sách lại được ghi nhận. Những động tháithay đổi trên thực tế đều cho thấy việc kiểm soát lạm phát dường như đã lơ làhơn, trong khi quan điểm ưu tiên cho tăng trưởng lại trỗi dậy.
Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều chỉnh tănglên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới. Không lâu sau đó, ngày18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hànggiữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá+/-3%.
Các địa phương cũng không thiếu phần góp trong việc tăng giá CPI giai đoạn này.Khi mà Nghị định 49/NĐ-CP cho phép điều chỉnh học phí có lộ trình, các tỉnh,thành phố đã đồng loạt tăng học phí lên rất cao trong tháng 9, dẫn tới nhóm giáodục và đào tạo góp phần làm cho CPI tháng đó tăng tới 0,7%.
Vẫn chưa hết, Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởngkhông nhỏ đến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miêntại miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác động đễn chỉ số giá tiêu dùng giai đoạncuối năm.
Trong khi đó, dưới tác động từ giá thế giới, gạo xuất khẩu liên tục lên giá đẩymặt bằng giá trong nước lên theo. Cả năm 2010, giá sàn xuất khẩu gạo đã đượcđiều chỉnh tăng đến 6 lần. Riêng giai đoạn cuối năm, giá gạo tăng bình quânkhoảng 3-4%/tháng, kéo dài từ tháng 8 đến những ngày cuối cùng năm dương lịch.
Bồi thêm cú chót, từ khoảng trung tuần tháng 10, thị trường lại ghi nhận các đợtleo thang của giá vàng và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao.Yếu tố tâm lý thể hiện trong diễn biến giá cả giai đoạn này, ở một số thời điểm,sức áp đặt lên chỉ số giá là đáng kể.
Nhưng điểm đáng lưu ý là chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn. Từ mức tăng chỉchưa đầy 13% vào cuối tháng 7, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được “bồiđắp” nhanh chóng, đến cuối tháng 11 đã đạt mức tăng 22,54% với M2 và 26,31% vớitín dụng, so với cuối năm 2009.
Ghi nhận tích cực từ chính sách nới lỏng, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11đã tăng 4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này còn tăng khoảng 6% so vớitháng trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức 28%tăng hơn so với cùng kỳ, chốt tại đầu tháng 12.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán cũng trải qua giai đoạn đi ngang, VN-Indexdao động trong khoảng hẹp kéo dài từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11, sau đó xuấthiện dấu hiệu đi lên.
Nhưng trước sức nóng của lạm phát tăng cao, đến đầu tháng 11, tín hiệu thắt chặtlại xuất hiện. Ngày 5/11, các lãi suất chủ chốt được điều chỉnh tăng thêm 100điểm cơ bản. Cung tiền và tín dụng cũng thu hẹp tốc độ tăng, chốt lại cả năm M2còn tăng 23%, tín dụng tăng 27,65% so với cuối năm 2009.
Thể hiện trên VN-Index, từ giữa tháng 12 đến nay, chỉ số thị trường đang trongchuỗi giảm điểm liên tiếp, hướng tới ngưỡng hỗ trợ 467 điểm.
Nhìn trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổichính sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Những ngày nămmới đang đến cũng đóng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neolại những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầunăm tới.
Theo Anh Quân
VnEconomy